Ba
năm sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tức là năm 1957 mà làng tôi vẫn không có
trường học. Con em ngư dân đi làm biển đa phần mù chữ. Năm 1957, thầy Quảng Bá
Hùng tốt nghiệp Trường Trung cấp Sư phạm Hải Dương xung phong vào Quảng Bình
nhận công tác. Về vùng gió Lào cát trắng, vùng đất “Ô châu ác địa” đã khổ rồi, thầy lại tình nguyện về xã biển góc nam
tỉnh đang mù chữ để mở trường càng gian khổ gấp bội. Thầy kể, được Phòng Giáo
dục huyện thông tin là có thầy Hùng về
mở trường, chủ tịch xã cùng bà con cô bác lên tận Động Cao đón. Nét mặt ai cũng
hồ hởi. Hồi đó cả làng tôi không ai có xe đạp. Thầy nghèo, mới ra trường, cũng
không có xe đạp nên phải cuốc bộ leo hai động cát cao từ làng Thượng Luật vào
Quốc lộ 1A 7 cây số, rồi lên huyện thêm 13 cây số nữa để họp, để nhận lương, để
xin ý kiến ở Phòng Giáo dục. Tháng nào cũng phải cuốc bộ ba, bốn lần như vậy.
Anh Ngô Tấn Ninh của tôi kể : "Mình
có cháu nội ngoại rồi, mà thầy từ Hội An về làng, cả đám học trò già rít rít
theo sau. Thầy gọi tiếng Quảng:
"Ninh, Cường đâu, biểu!”. Thế là mấy đứa “Dạ” ran, rồi lon ton chạy lại
thầy như ngày xưa lớp 1, lớp 2.
Về
làng tôi, thầy Quảng Bá Hùng ở nhà của o (cô) ruột tôi tên là Ngô Thị Cọt. Cọt
vì o là o út. O coi thầy như con. Làng tôi nghèo lắm, nhà nào cũng ăn khoai,
sắn với mắm, cơm lưng bát chỉ dành cho trẻ nhỏ. O dượng cũng ăn khoai, nhưng
bao giờ cũng dành cho thầy ngày một bát cơm nhỏ với quả trứng hay con cá đối,
giống như con trai đầu của mình. Thầy không chịu, chỉ ăn khoai với sắn như o
dượng. Thầy cùng với thầy Trần Đình Thôi, cũng một người Quảng Nam, cùng bà con
cả tháng trời chặt gỗ dương, cắt cỏ rười (một loại cỏ mọc trên cát, thân ống
nhỏ, cao tới hơn mét) đánh thành tranh
để lợp trường. Bàn ghế thì chặt những cây gỗ dương to, xẻ ra đóng. Thầy Hùng mồ
hôi, mồ kê ướt đẫm nhưng lúc nào cũng cười, cũng đánh bóng chuyền, đàn hát như
nghệ sỹ. Thầy có cái đàn Măng-đô lin, buổi chiều nào cũng mang xuống biển ngồi
đàn hát với học trò. Giờ dạy học đầu tiên của “Trường cấp 1 Ngư Thủy” (hồi đó
cấp 1 gồm các lớp 1, 2, 3, 4 theo hệ 10
năm của Liên Xô), thầy Hùng phải cầm tay từng học trò như Ngô Tấn Ninh, Ngô Phú
Cường, Ngô Minh Tuân, Ngô Văn Chắc, Ngô Thanh Phơ, Nguyễn Ngọc Mạnh (2 anh Phơ,
Mạnh vốn là bộ đội đã hy sinh ở chiến trường khu 5 trong chống Mỹ).v.v..viết
từng nét chữ cái a, bờ, cờ, i tờ, tờ i ti...Lứa
học trò được thầy Quảng Bá Hùng “khai sáng” đó là “thế hệ vàng” của làng tôi.
Do nhà nghèo, không ai được học lên cấp 3, Đại học, nhưng ai cũng mê đọc sách, làm thơ, bàn luận
văn chương sâu sắc, lại biết đàn sáo, và có hoa tay, trang trí đám cưới, cắt
khẩu hiệu rất giỏi. Thầy bảo: "Cái chữ là nết người nên các em phải học
viết chữ cho đẹp, đàng hoàng”. Thầy Hùng viết chữ rất đẹp, lại nắn nót cẩn
thận. Vì thế mà thầy chỉ dạy ở Ngư Thủy 7 năm (1957- 1963), nét chữ của thầy đã
truyền qua bao nhiêu thế hệ học trò làng biển, ai cũng viết chữ đẹp, bay
bướm. Đến các em học sinh hôm nay, vẫn
viết giống nét chữ thầy Hùng 50 năm
trước.
Thầy
không chỉ dạy viết chữ đẹp, dạy văn, dạy toán, dạy sử, địa, mà thầy còn đi biển đánh cá, kéo khuyếc với bà con ngư dân. Rồi thầy dẫn học trò đi
trồng cây phi lao trên cát để chắn gió, để “có màu xanh mà nương tựa”. Năm
1960, xã tôi có ông Ngô Xuân Mốc được phong anh hùng lao động vì có thành tích
trồng cây chắn cát. Thầy Hùng ra nhà anh hùng Mốc, xin cây phi lao giống, rồi
thầy đào hố, chặt bổi, nhồi phân bò, phân lợn bằng tay, học trò thì xách cây
phi lao bỏ xuống hố. Dân làng tôi ai cũng tặc lưỡi khen: "Thầy Hùng cao
ráo, đẹp trai, mà lao động không sợ bẩn”. Rừng dương thầy Hùng cùng học sinh
trường cấp I Ngư Thủy cùng bà con trồng dạo đó, đến thời chống Mỹ đã thành gỗ
cho C gái (Đại đội Nữ pháo binh Ngư Thủy anh hùng) làm trận địa, dân quân làng làm
công sự chiến đấu, bà con làm hầm trú ẩn suốt chục năm ròng.
Cảm
động nhất là chuyện thầy Hùng đưa cây dừa về
trồng ở làng tôi. Hồi đó một lần thầy Quảng Bá Hùng đi dự Hội nghị Chiến sĩ thi đua của Ty Giáo
dục Quảng Bình ở Đồng Hới. Thấy người ta đang trồng hàng dừa kết nghĩa Bình -
Trị - Thiên bên bờ sông Nhật Lệ, thầy liền liên hệ xin được 6 quả dừa giống đưa
về làng Thượng Luật. Thầy hì hục khuân cõng dừa giống lên xe, rồi gùi vượt gần
chục cây số Động Cao, Động Thấp đưa về làng trồng. Lại hì hục đào hố, xúc phân
trồng dừa. Thầy trồng ở nhà o tôi 2 cây,
ở nhà tôi 2 cây, 2 cây trồng ở trụ sở
hợp tác. Từ đó làng tôi nhà nào cũng có vài ba cây dừa. Hai cây dừa ở nhà tôi
do thầy trồng đến giờ vẫn còn. Mạ tôi đã ở dưới bóng hai cây dừa đó 28 năm
ròng. Tôi làm thơ về “Cây dừa vườn mạ” : Vườn
mạ bây giờ cát xóa/ Chỉ còn cây dừa như dây neo kiên nhẫn nối biển bờ / Như dây
diều mong manh thả lên trời những cánh lá rách bươm và chùm trái ngọt ../ Mạ ơi
/ Vườn mạ tháng năm góc trời trắng xóa / Chỉ còn cây dừa như ngọn đuốc xanh....
Sau này tôi hỏi thầy, tại sao thầy không xin giống cây gì cho nhẹ mà xin cây
dừa giống để mang vác cho nặng? Thầy bảo: “Làng phải có bóng mát mới thành
làng. Hơn nữa thầy trồng dừa là bởi nhớ quê hương Hội An lắm. Mỗi lần ngắm dừa
đỡ nhớ quê". Cây dừa cũng là kỷ niệm của thầy đối với làng Thượng
Luật....Sau này thầy kể, hồi ấy thầy nhớ Hội An đến mức, có lúc trong đầu gợn
lên ý nghĩ : Hay mình ăn cắp một chiếc thuyền để chèo về quê, như khi ăn cắp
thuyền chèo ra Bắc năm nào...
Hồi
làm phóng viên báo Thương Mại ở miền Trung, năm 1995, đi thực tế ở Hội An,
tôi hỏi chị Thu Giám đốc Công ty Du lịch
Hội An: "Tôi có ông thầy người Hội An, tên là Quảng Bá Hùng, chị có biết
ông ấy không?”. Chị Giám đốc cười: "Ông Quảng Bá Hùng thì dân Hội An ai mà
không biết. Ông ấy hàng chục năm làm Phó Chủ tịch UBND rồi Chủ tịch Mặt trận
thị xã, mới về hưu năm 1993...”. Thế là tôi được tạo điều kiện để được gặp thầy
giáo của mình 30 năm trước. Gặp tôi thầy hỏi liên tục tên từng người già ở làng
bây giờ ra răng, ai còn ai mất. Những mệ Tuấn, ông Ngự, mệ Thương, rồi anh Lẫn,
anh Minh, anh Khương, anh Ngoãn...Thầy hỏi các cô học trò như: Hòe, Mãi, chị
Tùy ở xóm Trung. Ôi, sao mà thầy nhớ tên người làng tôi nhiều thế. Thầy nhớ cả
tên “tục” của anh Cúc là “Côộc”. Rồi thầy hỏi
lứa học trò đầu tiên thầy cầm tay
tập viết chữ ấy có khỏe không? Chắc là đi bộ đội cả, có ai bị thương không?.
Thầy hỏi tới tấp, như là một đứa con xa làng lâu năm không về.
Gặp
thầy tôi mới biết thời hai mươi tuổi, thầy hoạt động cách mạng bí mật ở Hội An,
bị địch bắt. May nhờ có cơ sở giúp đỡ, trốn tù thoát ra được. Đó là năm 1955,
thầy 22 tuổi, chứ không phải thầy ra Bắc theo diện tập kết. Câu chuyện thầy
trốn tù ra Bắc cũng ly kỳ lắm. Thầy và bảy người cùng trốn tù ra bí mật chuẩn
bị gạo mắm, rồi ăn cắp một chiếc thuyền của ngư dân ở Cửa Đại chèo ra biển khơi
để ra Bắc. Họ chèo ra tận ngoài phao số 0 để tránh bị địch bắt lại. Có lần sóng
lớn suýt đánh chìm thuyền, anh em buộc dây vào nhau thành một khối để có chết
thì cùng chết. Lênh đênh mười mấy ngày
mới đến của sông Nhật Lệ, rồi tìm cách liên lạc với Ban Thống nhất Trung ương.
Thầy ra Bắc một mình, gia đình vẫn ở lại xã Cẩm Thạnh, Hội An. Vì ra Bắc theo
đường vượt biển, nên nhiều năm thầy bị tổ chức nghi ngờ. May mà thầy được Nhà
nước cho đi học Trung cấp Sư phạm. Để đánh tan sự nghi kỵ, tốt nghiệp, thầy
xung phong vào Quảng Bình dạy. Như vậy, thầy dạy học, làm quản lý giáo dục,
công đoàn giáo dục ở Lệ Thủy, Quảng Bình
quê tôi từ năm 1957 đến đầu năm 1975, trong đó có 3 năm đi học Quản lý giáo dục ở Hà Nội. Thầy làm
Hiệu trưởng ở làng tôi đến 7 năm mà thầy
chỉ chăm chú dạy học sinh học tập, thể
thao, ca hát... chẳng thấy thầy yêu cô gái nào. Năm 35 tuổi, lên dạy học ở xã
Hoa Thủy, thầy mới lấy vợ. Vợ thầy là chị Nguyễn Thị Thanh Thúy, cũng là một
giáo viên, hát rất hay làm thầy say mê. Tháng 3-1975, thầy đi B để tiếp quản và
làm công tác quản lý giáo dục ở Quảng Nam - Đà Nẵng sau giải phóng...
Người
thầy đầu tiên, người thầy Quảng Nam khai sáng giáo dục Ngư Thủy quê tôi, thầy
Quảng Bá Hùng nay đã 80 tuổi rồi, vẫn không nguôi với công tác khuyến học thành
phố Hội An. Thầy có 4 người con thì 3 người cũng làm nghề giáo viên như thầy,
toàn giáo viên dạy giỏi. Tấm lòng thầy bây giờ thanh thản vì cả một đời chỉ làm
việc tốt cho mọi người. Thi thoảng lại có một đứa học trò Lệ Thủy đi Nam về Bắc
ghé Hội An thăm thầy ở 460 - đường Cửa Đại, làm thầy như trẻ ra. Thầy vẫn hứa sẽ có một lần ra thăm quê vợ, về làng
biển Thượng Luật thăm bà con và những lứa học trò xưa, thăm “cây dừa vườn mạ”.
NGÔ MINH
(Rút trong tập Văn xuôi Lệ Thủy)