Tôn sư trọng đạo hàm chứa một ý nghĩa sâu sắc. Trước hết, đó là sự suy nghĩ nhìn nhận đúng đắn và tiến bộ cùa nhân dân ta về một nghề đáng được coi trọng và một con người đáng được tôn vinh. Nó chứng tỏ dân tộc ta là một dân tộc văn hiến và hiếu học, bởi coi trọng nghề dạy học là một biểu hiện sâu sắc của một dân tộc văn hiến và tôn vinh người thầy là bằng chứng hùng hồn của một dân tộc hiếu học. Tôn sư trọng đạo đã trở thành một đạo lí, một truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, là sức mạnh tinh thần, tình cảm lớn lao và bền vững của dân tộc để góp phần xây dựng nên một nước Việt Nam văn hiến và giàu mạnh.
Tục
ngữ Việt Nam có câu “Không thầy đố mày làm nên”, “Muốn sang thì bắc cầu
kiều/Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy” như một minh chứng cho truyền
thống tôn sư trọng đạo - một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta từ bao đời
nay. Người thầy không chỉ là người truyền đạt tri thức, thắp lên ngọn
lửa về ước mơ, niềm tin và hy vọng mà còn là tấm gương sáng cho bao thế hệ học trò
noi theo. Bởi thế mà đã có biết bao bài thơ, lời hát viết về hình tượng người
thầy.
Đó là những thầy, cô giáo của ngày đầu tiên
đi học:
“Em mắt
ướt nhạt nhòa
Cô vỗ về
an ủi
Chao ôi
sao thiết tha”
(Nguyễn Ngọc Thiện).
Ở
đó hình ảnh và tình yêu thương của cô có khác gì tình yêu thương của mẹ, để
trong ánh mắt hồn nhiên tuổi nhỏ có lúc cô giáo chính là những cô tiên hiền
dịu.
Người thầy mang đến những ý nghĩa tâm hồn thông qua những
cách cảm riêng. Với Hữu Tường, người thầy đầu
tiên chính là cô giáo - người khai tâm cho tâm hồn thơ bé vào đời:
Chào
Cô giáo kính mến
Cô sẽ
xa chúng em…
Làm
theo lời Cô dạy
Cô sẽ
luôn ở bên
(Gửi
lời chào lớp 1)
Hình ảnh cô giáo mẫu mực, có
sức thuyết phục như một chân lí theo suốt cuộc đời là một điển hình về sự cao
đẹp. Chúng ta nhận ra những nét thân quen ấy trong tâm hồn mỗi người như một
bảng giá trị sống mà mỗi khi va vấp, trước mỗi thắc mắc về thị phi ở đời đều
cần đối chiếu vào sự mực thước đó.
Rồi
những ngày đầu tiên tập viết, bàn tay nhỏ xíu xinh xinh giữa lòng tay cô ấm áp,
nét chữ run run thành hình, cô hiểu nét chữ nết người nên cẩn thận sửa nét, chỉ
cách cầm phấn, cầm viết cho từng em một:
“Xiêu
nghiêng nét chữ dại khờ
Tay cô
cầm ấm đến giờ lòng em
Vở ngày
thơ ấu lần xem
Tình cô
như mẹ biết đem sánh gì”
(Nhớ cô giáo
làng - Nguyễn Văn Thiên).
Bảng đen, phấn trắng, những
đêm dài miệt mài bên trang giáo án đã trở thành những hình ảnh quen thuộc gắn
liền với hình tượng người thầy. Người học trò trong bài hát “Bụi phấn” của nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu
không chỉ nhận ra bụi phấn đang rơi trên bục giảng, trên tóc thầy mà còn nhận
ra mình yêu tha thiết những năm tháng học trò, trân trọng từng khoảnh khắc được
nghe lời thầy giảng.
![1811binhminh1.jpg](/pic/news/Tin%20hoat%20dong%20THCS/NH2016-2017/T11/1811binhminh1.jpg)
Nhà
thơ Phi Tuyết Ba lại mang đến một cảm nhận sâu sắc về dòng trôi của thời gian
qua đời thầy ở bài thơ “Vùng phấn bay”:
“Bao
nhiêu viên phấn đã mòn
Bao
nhiêu giáo án chẳng còn trẻ trung
Nước
trôi về xứ vô cùng
Thương
thầy ở lại một vùng phấn bay”.
Trong
mắt học trò, nhiều lúc thầy cô không chỉ là cha, là mẹ, là thầy mà là người
nghệ sĩ trên bục giảng, lời dạy của thầy cũng chính là lời ru:
“Thầy
không ru đủ nghìn câu
Biết con
chữ cũng đứng sau cuộc đời
Tuổi thơ
em có một thời
Ước mơ
thì rộng như trời, ngàn năm”
(Lời ru của thầy - Đoàn Vị Thượng).
Bài giảng của thầy
đưa em ngược về quá khứ, đi đến tương lai, mở ra những chân trời mới, một góc
quê nhà.
Cũng trong niềm tâm tưởng đó, nhưng người thầy trong
thơ Trần Đăng Khoa lại mang những nét khác biệt: Bài thơ kính tặng thầy Lê
Thưởng, người thầy đã
truyền ngọn lửa văn chương cho tâm hồn thi nhân:
Em
nghe thầy đọc bao ngày
Tiếng
thơ đỏ nắng xanh cây quanh nhà
Mái
chèo nghe vọng sông xa
Êm êm
như tiếng của bà năm xưa
Nghe
trăng thở động tàu dừa
Rào
rào nghe đổ cơn mưa giữa trời.
…Đêm
nay thầy ở đâu rồi
Nhớ thầy, em lại lặng ngồi em nghe.
(Nghe
thầy đọc thơ - Trần Đăng Khoa)
Không cầu kì với những
cấu trúc thơ, không dụng công với những hình ảnh, biểu tượng lạ lẫm. Người thầy trong bài thơ này bình dị hiện lên bằng
một nét vẽ duy nhất: giọng đọc thơ. Giọng đọc ấy như một lời sáng thế, mở ra
những chân trời mới, truyền mạch sống cho nắng ngoài vườn, cây quanh nhà, nghe
thấu tiếng mái chèo tần tảo ngoài sông xa… Nhưng độc đáo nhất không phải chỉ
dừng ở những thanh âm vi lượng ấy. Câu thơ của thày đọc hay chính giọng đọc thơ
của thày chạm đến đáy lòng để tha thiết, để những thế hệ học trò nghe được cả
những vô thanh chứ đâu chỉ có hữu thanh: “Nghe
trăng thở động tàu dừa”. Phải là người thày có chất giọng trời phú, với cái
tâm sáng với nghề mới động lòng trời đất đến thế. Bởi thế mà câu thơ thày đọc
hay nghệ thuật “đọc thơ” ấy cũng là cách truyền thụ đã tưới mát tâm hồn ấu thơ
như cơn mưa đến với đồng đất ngày nắng hạn làm xanh tươi tâm hồn thần đồng thơ
ấy đến muôn đời.
Có một thời đất nước đạn bom, những người thầy theo tiếng
gọi non sông xếp lại trang giáo án lên đường. Chiến tranh đi qua, thầy lại trở về
với nụ cười vẹn nguyên, tin tưởng như xưa “Nhưng một bàn chân không còn nữa”,
nó đã hóa thân thành dấu nạng gỗ:
“In lên cổng trường những chiều giá buốt
In lên cổng trường những đêm mưa dầm
Dấu nạng hai bên như hai hang lỗ đáo
Chúng em nhận ra bàn chân thầy giáo
Như nhận ra cái chưa hoàn hảo
Của cả cuộc đời mình”
(Bàn chân thầy giáo - Trần Đăng Khoa).
Với
bài thơ “Bàn chân thầy giáo”, nhà thơ
thiếu nhi Trần Đăng Khoa đã thay mặt các thế hệ học trò Việt Nam nói lên sự
kính trọng, lòng biết ơn chân thành đối với những người thầy đã không tiếc tuổi
xuân cống hiến cả cuộc đời cho đất nước.
Và suốt dọc thời bình, những người thầy
vẫn miệt mài làm người ươm hạt, người đưa đò thầm lặng. Bao
nhiêu thế hệ học trò đã cặp bến bờ tri thức, mang theo một lòng tri ân vô hạn.
Riêng người thầy vẫn tự nhủ con đường mình đang đi vẫn còn xa, xa lắm:
“Con đò
mộc - mái đầu sương
Mãi theo
ta khắp muôn phương vạn ngày
Khúc sông ấy vẫn còn đây
Thầy đưa
tiếp những đò đầy qua sông...
(Người lái đò - Thảo Nguyên).
Hình ảnh người thầy trong thơ không chỉ có những khúc vui
mà cả những đắng cay, cơ cực, không chỉ được thể hiện trong cách cảm của học
trò mà còn bằng cách tự nhận thức với bản lĩnh riêng của mình. Nhập vai những
cô giáo “cắm bản” vùng cao một thời, nhà thơ Lê Đình Cánh viết:
Em đi nón chạm mây trời
Rừng sâu “bán chữ” cất lời ngân nga
Tiếng rao xao xác lau già
Non cao đôi mảnh trăng tà ngậm sương
(Em đi - Lê Đình Cánh)
Những cô giáo lặng lẽ vượt núi, băng rừng đem con chữ
về cho học trò miền núi cứ lặng lẽ cống hiến như một lẽ sống ở đời. Sự âm thầm
ấy kì diệu đến mức chỉ có đất trời và khung cảnh miền sơn cước là những chứng
nhân duy nhất. Tiếng “rao” “bán chữ” mời gọi những đôi mắt trẻ thơ đến với
trường, với lớp như tiếng gió thôi xao xác ngọn lau già
hiu hắt. Những năm đất nước còn khó khăn, mọi chính sách ưu tiên chưa có điều
kiện được áp dụng, đường xá, hạ tầng các bản làng còn hạn chế nhưng những người
giáo viên quyết đem con chữ đến với bản làng bằng những cống hiến như thế.
Người
thầy sẽ mãi là hình tượng đẹp trong thơ ca và âm nhạc, bởi lẽ ai đã từng đi qua
những năm tháng học trò cũng đều muốn đọc lên, hát lên những bài thơ, những lời
ca của lòng biết ơn chân thành: “Dẫu đếm hết sao trời đêm nay, dẫu đếm
hết lá mùa thu rơi; nhưng ngàn năm, làm sao em đếm hết công ơn người thầy” (Người
thầy - Nguyễn Nhất Huy).
![1811binhminh2.jpg](/pic/news/Tin%20hoat%20dong%20THCS/NH2016-2017/T11/1811binhminh2.jpg)
Có lẽ
những hình ảnh về người thầy đã đi vào thơ nhạc không những là tiếng lòng của
biết bao thế hệ mà còn là những mẫu hình về lẽ sống, về lí tưởng sống mà mỗi
người đều hướng đến để thanh lọc tâm hồn mình. Bằng tất cả tình cảm trân trọng dành cho nhà giáo và
nghề giáo, với truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “tôn sư trọng đạo”, ngọn lửa
tình yêu cuộc sống, tình yêu con người, tình yêu nghề giáo sẽ mãi mãi rực sáng
trong tâm trí chúng ta; thúc giục chúng ta phấn đấu xây dựng một xã hội công
bằng, tốt đẹp.
" Dưới ánh mặt trời không có nghề
nào cao quý hơn nghề dạy học" - Comenxki.
Mùa Hiến chương 2016