Mở đầu buổi tập huấn, đ/c Nguyễn Thị
Bích Thảo – Hiệu trưởng nhà trường đã nhấn mạnh tầm quan trọng sự cần thiết của
vệc thực hiện vấn đề Bình đẳng giới trong giai đoạn hiện nay. Đồng chí cũng đã
khái quát một số nội dung cơ bản của Luật trẻ em số 102/2016/QH13 ngày
05/4/2016 và Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều của Luật trẻ em. Những điểm mới của Luật trẻ em như: Quy định cụ thể về các quyền và bổn phận của trẻ em; sự tham gia của trẻ em
vào các vấn đề về trẻ em; các biện pháp bảo vệ trẻ em ba cấp độ (phòng ngừa, hỗ
trợ, can thiệp); chăm sóc thay thế cho trẻ em; trách nhiệm thực hiện quyền trẻ
em; các hành vi vi phạm quyền trẻ em bị nghiêm cấm…Trong
đó, đặc biệt chú ý đến các điều quy định Bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng. Cụ
thể: Thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em (Điều 33);
Truyền thông, giáo dục, nâng cao năng lực về bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng
(Điều 34); Bảo đảm an toàn cho trẻ em trong việc trao đổi, cung cấp thông tin
trên môi trường mạng (Điều 35); Các biện pháp bảo vệ thông tin bí mật đời sống
riêng tư cho trẻ em trên môi trường mạng (Điều 36); Các biện pháp hỗ trợ, can
thiệp trẻ em bị xâm hại trên môi trường mạng (Điều 37). Đ/c cũng đã chỉ đạo BBT
trang website của trường tổ chức họp, rà soát lại tất cả các bài đã được đăng,
nếu bài nào có tiết lộ về thông tin của cá nhân học sinh thì điều chỉnh nội
dung hoặc gỡ bỏ, hoặc xin ý kiến của phụ huynh HS.

Tiếp theo đ/c
Nguyễn Thị Mai Nhung – Chủ tịch CĐ nhà trường đã khái quát các nội dung liên
quan đến Bình đẳng giới, như: Giới tính và giới; Định kiến giới và phân biệt
đối xử về giới; Cân bằng giới, công bằng giới và bình đẳng giới; Và việc lồng
ghép giới trong các hoạt động chuyên môn hàng ngày. Các
nội dung lồng ghép giới cần thực hiện như: Lồng ghép giới trong các văn bản chỉ
đạo điều hành; Lồng ghép giới trong công tác lập kế hoạch; Lồng ghép giới trong
các hoạt động giảng dạy và học tập trong và ngoài trường học.

Theo
báo cáo khoảng cách giới toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế Thế giới năm 2018 về mức
độ mất cân bằng giữa nam và nữ, Việt Nam xếp thứ 65/144 quốc gia, và xếp thứ 7
ở châu Á về thu hẹp khoảng cách về giới trên các lĩnh vực. “Việt Nam được ghi nhận là một trong số các quốc gia xóa bỏ
khoảng cách giới nhanh nhất trong vòng 20 năm qua; đã hoàn thành trước thời hạn
mục tiêu bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế của phụ nữ. Việt Nam nằm trong
nhóm nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao ở khu vực và trên thế giới (đứng
thứ 43/143 nước trên thế giới và thứ 2 trong ASEAN). Dẫn chứng những con số
trên để có thể nói rằng, phụ nữ Việt Nam ngày nay đã có một vị thế mới trong
nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực TT&TT”.
Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU) đã dẫn đầu và khởi tạo
nhiều sáng kiến toàn cầu về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ như Giải
thưởng bình đẳng về giới trong công nghệ, nhằm thúc đẩy hơn nữa sự bình đẳng
của phụ nữ trong một lĩnh vực thường được xã hội nhìn nhận là khó khăn đối với
phụ nữ. Số liệu thống kê từ cuộc điều tra quốc gia về bạo lực gia đình đối với
phụ nữ cho thấy 58% phụ nữ cho biết đã từng chịu ít nhất một trong ba hình thức
bạo lực thể chất, tinh thần và tình dục. Do vậy, công tác tuyên truyền sẽ đóng
một vai trò thiết yếu trong mục tiêu xóa bỏ các bất công đối với phụ nữ.
Phụ nữ hoàn toàn xứng đáng được xã hội ghi nhận và đánh giá
một cách công bằng đối với các thành quả mà chị em phải nỗ lực nhiều hơn nam
giới để đạt được. Phụ nữ cũng cần luôn được bảo vệ trước các bất công, bạo lực
đang diễn ra trên thế giới và ngay ở Việt Nam. Trong những năm qua, mặc dù
bình đẳng giới đã có nhiều tiến bộ đáng kể, nhưng trên thực tế khoảng cách về
giới vẫn còn tồn tại: Lao động nữ vẫn còn nhiều thiệt thòi trong việc tiếp cận
các dịch vụ cơ bản, cơ hội được đào tạo, cơ hội thăng tiến. Phụ nữ cần được tạo
điều kiện để thể hiện tốt nhất vai trò của mình; được bồi dưỡng, đào tạo
để tham gia ngày càng nhiều các hoạt động xã hội, công tác lãnh đạo và quản lý
ở các cấp... Và bình đẳng giới không chỉ là vấn đề của phụ nữ, mà của chính nam
giới; không chỉ là nhiệm vụ của các đồng chí tham gia tập huấn ngày hôm nay, mà
là trách nhiệm của toàn xã hội.
Thực trạng hiện nay tại
tỉnh ta, tỷ
lệ cán bộ quản lý giáo dục là nữ trong tổng số cán bộ quản lý giáo dục cấp tỉnh
và huyện đạt trung bình các năm là 29,7%. Công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục đã được cải
thiện, đặc biệt người DTTS, con em các gia đình nghèo, trẻ em gái và các đối
tượng bị thiệt thòi ngày càng được quan tâm. Về cơ bản đã đạt được sự bình đẳng
nam nữ trong GDPT và GDĐH…
Tuy
nhiên, có một thực trạng đáng báo động liên quan đến vấn đề giới trong giáo
dục, đó là bạo lực học đường. Từ đầu năm học 2009-2010 đến tháng 5-2012, toàn
quốc đã xảy ra 1.508 vụ việc HS đánh nhau trong và ngoài tương học. Bình quân
cứ 5.260 HS thì xảy ra 1 vụ đánh nhau; cứ 9 trường thì có 1 vụ HS đánh nhau; cứ
10.000 HS thì có 1 HS bị kỷ luật khiển trách; cứ 5.555 HS thì có 1 HS bị kỷ
luật cảnh cáo vì đánh nhau; cứ 11.111 HS thì có 1 HS bị buộc thôi học có thời
hạn vì đánh nhau…
Sự
chênh lệch giữa nam và nữ cũng có sự khác biệt theo các cấp học, càng lên cấp
học cao sự chênh lệch càng lớn. Đ/c Nguyễn Thị Mai Nhung nhấn mạnh: cần phải xóa bỏ các định kiến về giới ảnh hưởng tiêu cực tới
quan điểm về tính công bằng khiến các chúng
ta cho rằng “ưu thế của phái mạnh” trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội là “lẽ tự nhiên”. Còn với các em gái, định kiến về giới có thể khiến các em
tự ti, cảm thấy thấp kém hơn người khác và ít có động lực học tập. Đồng thời đ/c mong muốn mỗi giáo viên, nhân viên sẽ luôn là tấm
gương gương mẫu cho toàn bộ học sinh noi theo. Sẽ luôn thực hiên tốt bình đẳng
giới và bảo vệ trẻ em, điều đó được thể hiện qua một số bài học trong SGK. Mọi
sự nỗ lực cố gắng vì bình đẳng giới và
bảo vệ trẻ em tại Việt Nam nói chung và trong
giáo dục nói riêng cần được thực hiện bền bỉ, trong sự bền vững.
Ở
Việt Nam, dù chúng ta tự hào rằng mọi trẻ em gái và trẻ em trai đều có cơ hội
tiếp cận giáo dục tiểu học một cách bình đẳng, thì tất cả những người đang làm
việc trong lĩnh vực giáo dục đều phải nhận thấy rõ một điều rằng, như thế là
chưa đủ. Chúng ta cần phải chú trọng hơn việc dạy học đổi mới theo phương pháp
dạy học tích cực để đảm bảo rằng mọi trẻ em gái và trẻ em trai đều được
học tập trong một môi trường đầy hứng thú, không có thành kiến hay định kiến về
giới và luôn được bảo vệ và học tập trong một môi trường thân thiện”.
Mặc
dù thời gian tập huấn không nhiều nhưng CBGVNV trường TH số 2 Hồng Thủy đã nắm
được những nội dung cơ bản của công tác Bình đẳng giới và Luật trẻ em, đặc biệt
xác định được vai trò, trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc bảo vệ trẻ em
trên môi trường mạng. Tin tưởng rằng, mỗi một CBGVNV nhà trường sẽ thực hiện tốt
trong quá trình công tác cũng như trong cuộc sống./.
Võ
Mỹ Duyên