Nhân dịp đón năm mới Kỷ Hợi, chúng ta không thể không nhớ về lịch sử cách
đây 108 năm về trước, năm Tân Hợi 1911, tại bến cảng Nhà Rồng, người thanh niên
yêu nước Nguyễn Tất Thành (với tên gọi Văn Ba) đã lên tàu rời quê hương xứ sở,
bôn ba khắp năm châu bốn biển tìm đường giải phóng dân tộc.

Tàu
Latouche Treville (Latútsơ
Tơrevin),
con tàu đã đưa người thanh niên yêu nước Nguyễn
Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. (Ảnh tư liệu)
Điểm lại
lịch sử, chúng ta thấy vào cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đất nước ta đắm chìm trong đêm trường nô lệ. Với ách
đô hộ của thực dân Pháp, chúng đã biến nước ta thành nước thuộc địa nửa phong
kiến. Chúng dùng mọi thủ đoạn thâm độc khai thác tài nguyên và bóc lột dã man
của cải và sức lao động của nhân dân ta để làm giàu cho chính quốc. Trước tình
cảnh ấy, nhân dân ta đã phát huy truyền thống yêu nước từ bao đời để lại, đứng
dậy tiến hành nhiều cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và bè lũ tay sai giành độc lập, tự do nhưng đều
thất bại. Nhiều chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đã xuất dương tìm
đường cứu nước nhưng vẫn không tìm ra một con đường mang lại hiệu quả đích
thực. Trước thực tế ấy, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành, người con xứ Nghệ, mới
21 tuổi, đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước, bởi trong anh đang nung nấu
một quyết tâm cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy
là tất cả những điều tôi muốn, đấy
là tất cả những điều tôi hiểu”. (Tháng 12/1920,
tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp, cùng với quyết định chính xác khi
bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ III do Lênin sáng lập, Nguyễn Ái Quốc đã từ một
người yêu nước trở thành một người cộng sản. Giản dị và ngắn gọn cho quyết định
chính xác của mình khi được hỏi tại sao lại bỏ phiếu như vậy, Người trả lời:
“Rất giản đơn. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản
và nhiều điểm khác. Nhưng tôi hiểu rõ một điều: Quốc tế III rất chú ý đến vấn
đề thuộc địa… Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả
những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”).
Sau một thời gian tìm hiểu, nhờ
người giới thiệu, Nguyễn Tất Thành lấy tên Văn Ba xin làm phụ bếp trên tàu Đô
đốc Latútsơ Tơrevin, một tàu vừa chở hàng, vừa chở khách của hãng Năm Sao đang
vào cảng Sài Gòn chuẩn bị đi Mácxây (Pháp).
Ngày 05-6-1911, trên con tàu Latútsơ
Tơrevin, từ cảng Nhà
Rồng, thành phố Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh), người thanh
niên yêu nước Nguyễn
Tất Thành rời Tổ quốc thân yêu ra đi tìm đường giải phóng dân tộc.
Nói về mục đích của chuyến đi này,
hơn 10 năm sau, năm 1923, Người đã trả lời nhà thơ, nhà báo Nga Ôxíp
Manđenxtan: “Vào trạc tuổi mười ba, lần đầu tiên tôi được nghe những từ Tự do,
Bình đẳng, Bác ái... Người
Pháp đã nói thế và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp,
muốn tìm những gì ẩn dấu đằng sau những từ ấy...”.
Một lần khác, trả lời nhà văn Mỹ
Aana Luy Xơtơrông, Người nói: "Nhân dân
Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau, ai là
người sẽ giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này thì nghĩ là
Nhật, người kia thì nghĩ là Anh, có người thì nghĩ là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra
nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở
về giúp đồng bào tôi". Thế là Nguyễn Tất Thành đã bước vào
con đường lao động đầy vất vả với bao công việc khó khăn, nặng nhọc để kiếm
sống và học tập, để thâm nhập vào phong trào công nhân và lao động các nước, từ
tàu buôn Pháp, qua tàu buôn Mỹ, cạo tuyết thuê cho một trường học rồi phục vụ
trong một khách sạn ở Anh. Ngày đầu tiên đặt chân lên đất Pháp, anh đã phát
hiện ra rằng: Ở đây có nhiều người Pháp nghèo khổ. Tại sao người Pháp
không "khai hoá" đồng bào của họ trước khi "khai
hoá chúng ta"? Còn
trên đất Mỹ khi anh tranh thủ đến thăm tượng thần Tự do anh đã ghi cảm
tưởng: "Ánh sáng trên đầu thần Tự do tỏa rộng khắp trời xanh,
còn dưới chân tượng thần Tự do thì người da đen đang bị chà đạp. Bao giờ người
đấu tranh da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ người phụ nữ được
bình đẳng với nam giới"?.
Năm 1917, Nguyễn Tất Thành trở lại
Pháp. Bắt đầu từ đây, anh có nhiều cuộc tiếp xúc với các nhà văn hoá, trí thức,
tham gia các cuộc sinh hoạt chính trị sôi nổi.
Khoảng đầu năm 1919, Nguyễn Tất
Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp, khi được hỏi vì sao vào Đảng, anh trả lời: "Vì đây là tổ chức duy nhất theo đuổi
lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: “Tự do, Bình đẳng, Bác
ái”. Ngày 18-6-1919, thay mặt “Hội những người Việt Nam yêu
nước” tại Pháp, Nguyễn Tất Thành gửi đến Hội nghị Véc-xây Bản yêu sách của nhân dân An Nam đòi Chính phủ Pháp thừa nhận quyền
tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Dưới Bản yêu sách, Nguyễn Tất Thành ký tên:
Nguyễn Ái Quốc. Đây là lần đầu tiên danh xưng Nguyễn Ái Quốc (Người yêu
nước họ Nguyễn) xuất
hiện.
Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc
bản sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của
Lênin. Luận cương của Lênin đã chỉ cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập
cho dân tộc và tự do cho đồng bào. Sau này, khi kể lại sự kiện quan trọng đó,
Người nói: "Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn
khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một
mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi
đồng bào bị đọa đầy đến khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng chúng ta!".
Từ ngày 25 đến ngày 30-12-1920,
Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội tại thành phố Tua
(Pháp) với tư cách là đại biểu chính thức và duy nhất của các nước thuộc địa
Đông Dương. Tại Đại hội này, cùng những người cách mạng chân chính của nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ
phiếu tán thành tham gia Quốc tế III - Quốc tế cộng sản, trở thành một trong
những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và Người cũng trở thành người cộng sản
Việt Nam đầu tiên. Đó là một sự kiện chính trị vô cùng quan trọng trong đời
sống cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và trong lịch sử cách mạng nước ta. Nếu như
cuộc đấu tranh của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị Vécxây năm 1919 là phát pháo
hiệu thức tỉnh nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh chống thực dân Pháp, thì
việc Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 đã đánh dấu một bước
chuyển biến quyết định, bước nhảy vọt, thay đổi về chất trong nhận thức tư
tưởng và lập trường chính trị của Người: Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin. 40 năm sau, nhìn
lại sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Cá nhân tôi, từ lúc đầu nhờ được học tập
truyền thống cách mạng oanh liệt và được rèn luyện trong thực tế đấu tranh anh
dũng của công nhân và của Đảng Cộng sản Pháp, mà tôi đã tìm thấy chân lý
của Chủ nghĩa Mác - Lênin, đã từ một người yêu nước tiến bộ thành một
chiến sĩ xã hội chủ nghĩa". Cũng từ thực tế lao động, học
tập, thâm nhập đời sống những người lao động, phân tích tình hình chính trị thế
giới, tiếp cận với chủ nghĩa Mác - Lênin Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn con đường
cứu nước đúng đắn, đó là con đường cách mạng vô sản mà sau này Người đã đúc
kết: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”.
Sự lựa chọn và hành động của Nguyễn
Ái Quốc là phù hợp với trào lưu tiến hóa của lịch sử, chuyển từ chủ nghĩa yêu
nước sang chủ nghĩa cộng sản, đã kéo theo cả một lớp người Việt Nam yêu nước
chân chính đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đó chủ nghĩa Mác - Lênin bắt đầu
thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, cách mạng
Việt Nam từ đây có một phương hướng mới, một bước ngoặt mới.
Sau 30 năm tìm đường cứu nước, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, giành
lại chính quyền về tay nhân dân, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà
nước công nông đầu tiền ở Đông Nam châu Á, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc
lập và dân chủ. Từ đây dưới sự lãnh đạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã tiến hành
hai cuộc kháng chiến thần thánh đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giải phòng
miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện công
cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn
minh.

Bến cảng Nhà
Rồng hôm nay
Đất nước,
dân tộc và nhân dân ta đã đi qua 108 mùa xuân, từ mùa xuân năm Tân Hợi 1911 đến
mùa xuân Kỷ Hợi 2019. Từ đó đến nay, đất nước chúng ta đã trải qua bao biến cố,
thăng trầm nhưng luôn trong tư thế ngẩng cao đầu trước kẻ thù, trước những thử
thách cam go: “Nước Việt Nam từ máu lửa/Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Đất nước - Nguyễn Đình Thi). Bao nhiêu
mùa xuân qua là bấy nhiêu nụ hoa chiến thắng. Chúng ta tự hào về Đảng ta, tự
hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại - “Người
ra đi tìm hình của nước” (Chế Lan Viên) để cho chúng ta hôm nay, các thế hệ
Tiên Rồng mãi được sống trong hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Một
Việt Nam hùng cường, một Việt Nam yêu chuộng hòa bình, lịch lãm, thân thiện và
vô cùng mến khách đang dang rộng vòng tay chờ đón bầu bạn trên khắp bốn biển
năm châu.
Xuân Kỷ Hợi
Đỗ Đức Thuần