Có thể kể đến những làng quê thường xuyên tổ chức bài Tới
mỗi dịp Tết đến như: Xuân Lai (Xuân Thủy), Mỹ Lộc Thượng (An Thủy) ở phía tả
ngạn sông Kiến Giang; Xuân Hồi (Liên Thủy), Thượng Phong (Phong Thủy), Thuận
Trạch (Mỹ Thủy) ở phía hữu hạn. Theo tìm hiểu của chúng tôi thì bài Tới là một
trò chơi giải trí có tính chất văn nghệ quần chúng nên bài tới lôi cuốn người
xem nhiều hơn là người chơi, đặc biệt là lôi cuốn các nghệ nhân dân gian trong
vùng tụ tập để trổ tài hò hát, vì thế, người xem càng lúc càng đông đúc.

Trong di sản hò khoan Lệ Thủy, hò bài Tới chiếm một số lượng
khá lớn. Theo sưu tầm, khảo cứu của Nhà nghiên cứu Đặng Ngọc Tuân trong cuốn
“Hò khoan Lệ Thủy” thì chỉ tính riêng về thể loại hò này đã có 24 bài hò về 24
quân bài như con Nhì nghèo, con Tam quăn, con Tám tiền, Tứ cẳng, con Tám dây,
Thái Tử... Người lĩnh xướng vừa hò vừa đưa ra gợi
ý sát đúng với nội dung tên gọi của
quân bài được nhắc đến, thậm chí có nhiều câu hò rất xúc động, thiết tha khiến
người nghe không khỏi chạnh lòng, bùi ngùi... về
quân bài đang cầm. Ví như khi cầm quân bài “Nhì nghèo” trên tay, người chơi hò:
“Chồng chết, gặp ba ngày tết,
Mượn cuốc mà chẳng ai cho.
Hai tay bốc cát
tra mồ,
Tình chàng nghĩa
thiếp Hán Hồ biệt ly”
Hay:
“Chớ thấy chanh
chua mà chíp miệng,
Chớ thấy vườn rộng
mà lấn mà xông.
Cam sành chớ đợi
quả bong,
Cây khô lá héo bỡi
không ai màng”
(Con Tam quăn)
Nếu chòi nào có lá bài đó thì ngay lập tức gõ ba tiếng mõ, kêu “cốc, cốc, cốc”. Tương ứng
với đó là lá cờ màu đỏ sẽ được các anh quản trò đưa đến chòi có quân bài có tiếng
mõ vừa phát ra. Cứ 3 lá cờ màu đỏ sẽ được đổi một lá cờ màu vàng (có kích thước
lớn hơn). Người thắng cuộc là người
sưu tập đủ 2 lá vờ màu vàng. Những câu hò, câu vè của quê hương, đất nước lại
được dịp vang lên:
“Con cá bống cát nằm trên bãi cát
Con chim chài đậu chiếc thuyền chài
Anh với em nỏ thành gia thất vì ai?
Xưa kia trúc đà làm bạn với mai một cành”
(Con Thất)
“Mồng một cho tới mồng ba
Rộn ràng ong bướm sao anh mà vắng tanh”
(Con Ba trạng)
“Một duyên hai nợ, ba tình
Chiêm bao lặn khuất bên mình năm canh”
(Con Gà)
“Xưa kia em nói rằng thương
Anh về bán nhà bán cửa, bán ông táo thổ
công.
Nay chừ em nói rằng không,
Anh nghe như sấm sét giữa đồng em ơi”
(Ông Ầm)
“Ai có tài thì tranh đoạt hơn thua,
Giả như Thạch Sanh thuở trước cứu con Vua Thủy
Tề”
(Con
Thái tử)
“Thẳng mực Tàu thì đau lòng gỗ,
Ta đây người quân tử không dành chỗ cho ai.
Ta vin cành trúc,
ta dựa cành mai,
Có ông tơ bà nguyệt
nghe ai nấy nhờ”
(Con Tám dây)

Lễ hôi bài Tới thu hút rất nhiều du khách đến
xem và chơi
Rõ ràng, mỗi bài
hò tương ứng với mỗi quân bài là tái hiện của một cuộc đời, một số phận hay thể
hiện một quan điểm, tư tưởng đạo lí nào đó đã được dân gian khéo léo gửi gắm,
nhắc nhở cho muôn đời sau những bài học làm người, về đối nhân xử thế... rất
sâu sắc và thấu lí đạt tình.
Một câu
hỏi đặt ra là bài Tới xuất hiện ở Quảng Bình tự bao giờ? Đó là câu hỏi đang làm
các nhà nghiên cứu văn hóa mải miết tìm câu trả lời.
Có giả thuyết cho rằng, trong thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh, Đào Duy Từ đã
đưa bài Tới dạy cho các binh sĩ chơi trong những ngày đầu xuân để họ vơi bớt đi
nỗi nhớ quê nhà. Chính vì vậy, các chòi chơi hiện nay là sự cách tân, biến tấu
từ chòi lính canh mà ra.
Tuy nhiên, cũng có một giả thuyết khác lại
khẳng định, bài Tới có nguồn gốc từ đời sống thuần nông của người dân xưa và
các chòi canh lúa, canh rẫy chính là những hội bài Tới đầu tiên ở Quảng Bình.
Tuy vậy, dù ra đời ở giai đoạn nào, hình
thành ra sao, thăng trầm như thế nào, bài Tới cũng đã có một chỗ đứng vững chắc
trong cộng đồng, quy tụ những nét đặc trưng, đậm sắc nhất của văn hóa vùng đất Lệ
Thủy, Quảng Bình.
Bên cạnh đó, có một điểm thú vị khác, đó là
sự xuất hiện vô cùng đặc biệt của con bài “Mỏ nhọn” (Mỏ dzọn) - con bài chỉ có
duy nhất ở bài Tới Quảng Bình. Để giới thiệu con bài này, nhiều cách hô vè rất
hay được áp dụng, như:
“Lẳng lặng mà nghe đi chợ:
Một trăm ông chú không lo
Mà chỉ lo mụ o nhọn mồm...”
Bài Tới Quảng Bình đã xây dựng
hồ sơ trình UNESCO công nhận “Di sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại”
và được công nhận. Đây chính là chặng đường đầy thử thách để bảo tồn và phát
huy giá trị của bài Tới trong cuộc sống hiện đại. Một trong những dấu hiệu tích
cực, đáng mừng là trong “Lễ hội Di tích lịch sử chùa Hoằng Phúc” được tổ chức
vào giữa tháng Giêng hằng năm có tổ chức lễ hội bài Tới tại sân vận động xã Mỹ
Thủy. Qua hai lần tổ chức, lễ hội đã thu hút nhiều du khách trong và ngoài địa
phương đến xem và tham gia “thử vận may” đầu xuân năm mới. Chả là từ xa xưa, người ta đã từng
đặt lời để vận động mọi người chơi bài chòi như sau:
“Đầu năm bói toán đâu
xa
Bài chòi một hội ít
là rủi may”
Rõ ràng, cha ông ta đã rất tiến bộ khi dùng trò
chơi văn hoá này để đấu tranh bài trừ bói toán mê tín dị đoan - điều mà rất
nhiều người “hiện đại” chúng ta ngày nay còn mắc phải.
Việc Hò khoan Lệ Thủy được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (ngày 08 tháng 5 năm 2017)
là cơ sở quan trọng để gìn giữ và phát triển làn điệu dân ca độc đáo gắn liền với
cuộc sống, trong đó có “Hò bài Tới”. Và, chúng ta cùng hy vọng rằng, trong nhịp
đập hối hả của cuộc sống hiện đại, những giai điệu sâu lắng của “Hò bài Tới” sẽ
còn ngân mãi với thời gian. Đó cũng là cách để chúng ta bảo tồn và phát huy một
giá trị văn hóa tinh thần đặc sắc của cư
dân sông nước xứ Lệ.
Đỗ Đức Thuần