
Lễ
hội chùa Hoằng Phúc
1. Lễ hội bái vọng thành hoàng làng
Thượng Phong:
Thành hoàng xuất
phát từ chữ Hán: Thành là
cái thành, hoàng là
cái hào bao quanh cái thành; và khi ghép chung lại thành một từ dùng để chỉ vị
thần coi giữ, bảo trợ cho cái thành.
Nhà văn Sơn Nam cho biết thêm: Ông thần ở đình làng gọi là thần Thành
hoàng, cai quản khu vực trong khung thành. Thoạt tiên là thần ngự trị nơi thị
tứ, sau áp dụng (cả) nơi thôn xóm, (vì) vẫn có điếm canh bố trí bao quanh...
Ở Lệ Thủy, nói
đến Thành hoàng, phải kể đến lễ hội thờ cúng thành hoàng Hoàng Hối Khanh ở Thượng
Phong (Phong Thủy). Lễ hội được tổ chức vào các dịp Tết Nguyên đán, ngày giỗ
của ông (Nhớ công ơn ông, cứ đến
ngày mồng 5 và mồng 6 tháng 6 (âm lịch), dân làng tổ chức tế lễ cung kính, long
trọng và đã thành lệ làng gọi là: "Cộ Ngài khai khẩn", vừa để tưởng
nhớ đến ngài, ôn lại truyền thống quê hương, vừa là để dân làng vào hội với các
nghi lễ, trò chơi dân gian mang đậm màu sắc địa phương.) và lễ Hạ nguyên (15/10 ÂL). Mỗi dịp lễ hội kép
dài trong vài ngày với các nghi lễ rất trang trọng: tế lễ, rước thần và sau đó
là hội hè vui chơi (bơi trải, cờ người, chọi gà, biểu diễn võ dân tộc, hò
khoan...).
2. Lễ hội tát
vung Đại Phong
Lễ hội này đôc
nhất chỉ có ở làng Đại Phúc (nay là thôn Đại Phong, xã Phong Thủy). Lễ hội
không tổ chức hằng năm mà chỉ tổ chức vào những năm hạn hán, lúa chẹn đồng. Lễ
hội nhằm mục đích làm náo loạn thiên cung để cầu mưa, kéo dài trong hai ngày.
Lễ hội được chia
làm hai phần: phần lễ được thực hiện ở miếu "Bà Ngũ vị long vương" và
đình làng, còn phần hội tát nước được diễn ra ở đoạn hói nhà Mạc ngay trong
làng. Hồi đó, làng Đại Phong có 7 thôn (Ấp Thượng, Ấp Roọc, Tây Thượng, Đông
Thượng, Tây Hạ, Đồn Hạ, Mỹ Phước). Mỗi mùa lễ hội, làng sẽ bắt xăm chọn một cặp
ra thi thố. Làng cũng trích một khoản tiền để làm phần thưởng và tổ chức ăn
khao.
Đoạn hói nhà Mạc đi qua làng còn có một
chiếc cầu "thượng gia hạ cầu" (tức là trên nhà, dưới cầu) kiên cố
vững chãi. Lễ hội diễn ra ngay ở đoạn sông khoảng 200m dưới chân cầu này, được
ngăn bởi hai con đê hai đầu. Người ta cắm hai cọc ở hai bờ đối diện sông, xỏ
một đoạn chỉ dài làm mốc, ở giữa đặt một chiếc vung lớn đường kính hơn 60cm.
Trai tráng của hai thôn trên 18 tuổi được huy động tham gia tát nước. Ai sức
vóc khỏe mạnh, dẻo dai được lên vị trí đầu tiên, còn phía sau cứ theo độ tuổi
để đứng. Mọi vật dụng tát nước được sử dụng tối đa như gàu sòng, nón, thau...
Hai bên thi nhau tát nước, người trên bờ hò
reo, cổ vũ, trống hội rền vang, kẻng khua giòn giã, cờ quạt phấp phới, náo động
cả một vùng sông. Đến khi đoạn sông cạn nước, bên nào tát mạnh hơn, chiếc vung (bên
trong chứa 20 quan tiền đồng làm giải thưởng) trôi về bên đó thì sẽ giành phần
thắng. Sau khi tát cạn, bà con lại tiếp tục đào sâu, với ý nghĩa "chạm
được con rồng nước nằm sâu trong lòng sông để nó phun mưa lên trời". Nếu
vào ngày diễn ra lễ hội, trời đột ngột đổ mưa, cả làng xem đó là điềm linh ứng,
lễ hội càng thêm tưng bừng, phấn khởi.
Đến những năm cuối thập niên 50 của thế kỷ
trước, do nhiều nguyên nhân, lễ hội tát vung Đại Phong dần dần mất đi và để lại
nhiều tiếc nuối.
3. Hội làng ở vạn chài Xuân Hồi
Đây là một hội làng của
riêng người dân chài du cư trên thuyền gốc làng Xuân Hồi (Liên Thủy, Lệ Thủy),
ít nơi có. Cứ vào dịp rằm tháng Giêng hàng năm, vạn chài gốc làng Xuân Hồi tập
hợp tất cả thuyền bè lại ở một địa điểm báo trước tổ chức hội làng trên sông.
Người ta kết nhiều thuyền lại, lót ván làm mặt bằng để đặt hương án, bàn thờ
cúng tế, hội hè với đủ văn tế, chuông, cờ, lọng, và vui chơi… Sau đó có buổi
làm chay, rước tượng Phật tụng niệm suốt đêm. Lễ hội có mục đích cầu mùa cầu
an, ngoài ra còn mang nét đẹp văn hóa là thiết lập tại hói Rào một điểm thu
tiền do những người ở địa phương đi làm ăn xa tự nguyện gửi tiền về quyên góp
lập quỹ xá tội vong nhân để tưởng nhớ những người đã khuất không nơi thờ cúng.
4. Lễ phát mộc làng Quảng
Cư
Theo sách “Địa chí huyện
Lệ Thủy” (NXB Văn hóa - Thông tin, 2010), Quảng Cư (tên chữ là Cư Triền, tên Nôm
là làng Chền, Kẻ Chền, nguyên thủy là Kẻ Chăm). Làng có nhiều nghề thủ công cổ
truyền như nghề mộc, nghề chạm khắc, nghề cưa xẻ, nghề sơn tràng, nghề đan lát,
nghề dệt may, nghề làm bánh..., nhưng nghề mộc được xem là "đệ nhất".
Từ đó, Lễ hội phát mộc đã trở thành "báu vật" có một không hai của
làng.
Hằng năm (thường vào dịp
Tết Nguyên tiêu) hoặc vào thời điểm khởi công đầu năm, các phường mộc trong
làng (mỗi phường có khoảng 15-20 thợ, trong đó ít nhất có 2 thợ cả, 4-8 thợ
chúng) vào làm lễ phát mộc.
Phần nghi lễ, mâm cỗ cúng bên cạnh các món
ăn truyền thống như thủ lợn, gà, xôi, thịt, một chai rượu, thì không thể thiếu
ba vật dụng đặc trưng của nghề mộc: một thước, một "nếch" (thanh gỗ
to hình chữ A), một "ống mực" (dụng cụ để đo đạc). Để bàn cúng ra
giữa sân, thợ cả khấn vái, cầu cho một năm làm ăn xuôi chèo mát mái, thầy thợ
làm nghề an toàn... Tiếp đó, thợ cả sẽ cưa hoặc bào hay đục đẽo một thanh gỗ,
như hình thức phát mộc mở màn đầu năm. Xong xuôi, mâm cỗ sẽ được hạ xuống chia
cho các thợ và gia đình thợ trong “ty thợ” (phường thợ) cùng chung vui. Hết
phần lễ, nhiều trò chơi dân gian cầu may được tổ chức để cả làng vùng vui chơi,
thưởng thức.
Bên cạnh nghi lễ phát mộc tại nhà thợ cả
đầu năm, còn có nghi lễ phát mộc tại những nhà mời thợ mộc đến dựng nhà. Mâm
cúng và trình tự thực hiện đều giống nhau, chỉ khác là thay vì bào, cưa, đục
đẽo một thanh gỗ làm phát mộc, người thợ cả sẽ dùng "dây mực" nẻ (kẻ)
"đường mực" đầu tiên lên thanh gỗ. Sau đó, thợ cả dùng rìu đẽo vào
thanh gỗ theo "đường mực" đã nẻ. Mấy ngày sau, ty thợ sẽ bắt đầu đến
làm việc từ vết đẽo phát mộc đó.
5. Lễ hội cầu ngư
Lễ hội Cầu Ngư được biết đến là một nét đẹp
văn hóa của ngư dân các làng chài ven biển. Lễ hội thường được ngư dân các
làng biển tổ chức vào dịp tháng Giêng nhằm tưởng nhớ ơn đức của cá Ông, cá Bà,
mong cho trời yên biển lặng, mưa thuận gió hòa, tôm dày cá được, làng yên vui,
nhà nhà hạnh phúc.
Lễ hội Cầu Ngư bắt nguồn
từ tục thờ Ông Nam Hải – là tập tục lâu đời của cư dân vùng biển từ Quảng Bình
trở vào. Ông Nam Hải, thực ra là loài cá Voi – loài cá có thân hình to lớn,
nhưng bản tính lại hiền hoà, thường cứu giúp những ngư dân mỗi khi gặp nạn trên
biển được ngư dân các tỉnh phía Nam gọi cá ‘Đức Ông’,‘Cá Ông’ hay ‘Ông Nam
Hải’. Khi Cá Ông chết, trôi dạt vào bờ thuộc địa phận của làng biển nào, thì
làng biển ấy phải tổ chức lễ tang long trọng và lập Lăng thờ phụng và cúng tế
rất nghiêm cẩn. Lễ tế Ông Nam Hải ngày nay thường được gọi là Lễ hội cầu ngư.
Việc tế lễ cầu ngư của
người vùng biển Lệ Thủy là một nét đẹp văn hóa. Ngoài việc tế lễ trời biển, đây
còn là dịp để bà con thắt chặt tình đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong cuộc
sống.
Chính vì những giá trị đó, tối 29/4/2019,
tại Quảng trường biển Bảo Ninh (TP Đồng Hới), Bộ Văn hoá – Thể thao và Du lịch đã
trao Bằng chứng nhận Lễ hội cầu ngư huyện Lệ Thuỷ là di sản văn hoá phi vật thể
Quốc gia theo Quyết định số 4069/QB-BVHTTDL ngày 30/10/2018.

Lễ
Rước nước trong Lễ hội chùa Hoằng Phúc
6. Lễ hội chùa Hoằng Phúc
Cứ mỗi dịp xuân về, người dân khắp nơi lại náo nức đến chùa Hoằng Phúc ở
thôn Thuận Trạch, xã Mỹ Thủy (huyện Lệ Thủy), ngôi chùa cổ nhất miền Trung để
trẩy hội.
Chùa Hoằng Phúc được xây dựng
cách đây hơn 700 năm. Theo các tài liệu ghi lại, năm 1301, Phật hoàng Trần Nhân
Tông đến thăm chùa, cầu phúc đức cho nhân dân. Lúc đó, chùa có tên là Am Tri
Kiến. Năm 1716, chúa Nguyễn Phúc Chu đặt lại tên chùa là Kính Thiên. Năm 1821,
vua Minh Mạng trong chuyến ngự giá Bắc tuần đã ghé lại chùa và đổi tên thành
Hoằng Phúc tự.
Trải qua nhiều tác động của
thời gian cùng chiến tranh, thiên tai, chùa bị tàn phá, hư hại. Cuối năm 2014,
chùa Hoằng Phúc được phục dựng, tôn tạo nhưng vẫn giữ nguyên trạng chùa cũ theo
lối chùa cổ thời nhà Trần và được Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch trao bằng
chứng nhận di tích lịch sử quốc gia.
Hàng năm cứ vào tháng Giêng Âm
lịch, chùa Hoằng Phúc lại long trọng tổ chức lễ
hội với quy mô lớn, thu hút hàng chục ngàn người tham gia. Nội dung của Lễ
hội sẽ gồm 2 phần, phần lễ và phần hội. Phần lễ sẽ bao gồm lễ rước nước, khai
mạc lễ hội, thực hiện các nghi lễ theo Phật giáo và thả hoa đăng. Phần hội bao
gồm các chương trình văn nghệ, tổ chức tuyến đường ẩm thực, các hoạt động thể thao
dân gian như kéo co, cờ tướng, đẩy gậy, thi đấu võ thuật, đánh đu truyền thống,
bài chòi,...
Lễ hội di tích lịch sử chùa Hoằng
Phúc được tổ
chức và duy trì hằng năm nhằm gìn giữ các giá trị văn hóa, tinh thần của nhân
dân địa phương, khơi dậy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc như tình đoàn
kết, lòng yêu nước, sự chia sẻ,... Thông qua lễ hội, Ủy ban Nhân dân huyện Lệ
Thủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Bình còn muốn nâng cao tinh thần trách nhiệm
của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân trong việc bảo vệ các danh lam
thắng cảnh của địa phương. Lễ hội cũng góp phần nâng cao hiệu quả du lịch, thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội cho tỉnh Quảng Bình.
Từ bao đời nay, lễ hội luôn giữ vai trò như
sợi dây gắn kết cộng đồng, tạo dựng không gian văn hóa vừa trang trọng, linh
thiêng, vừa tưng bừng, náo nức. Lễ hội trở thành nơi công chúng đến với lịch sử
cha ông, trở về với cội nguồn dân tộc, tưởng nhớ công ơn người đi trước, cầu
mong những điều tốt lành. Mỗi lễ hội mang một nét tiêu biểu và giá trị riêng,
làm cho thế hệ trẻ hôm nay hiểu được công lao tổ tiên, thêm tự hào về truyền
thống quê hương, đất nước của mình.
Đỗ Đức Thuần
- Tài liệu tham khảo:
1. Địa chí huyện Lệ Thủy (NXB Văn hóa - Thông tin, 2010)
2. Ô châu cận lục (Dương Văn An)