Đã 75 năm
trôi qua, nhiều
chi tiết nội dung trong Tuyên ngôn đã được nghiên cứu, làm sáng tỏ trên nhiều
lĩnh vực. Chúng ta càng thấy rõ những tư tưởng vĩ đại, tầm nhìn chiến lược của Hồ
Chủ tịch thể hiện trong Tuyên ngôn.

Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 là
văn bản pháp lý đặt cơ sở cho việc khẳng định thiết lập nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam, với mục tiêu Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, khơi nguồn sáng tạo và soi
sáng con đường cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Hơn thế nữa, Tuyên ngôn Độc lập còn đóng góp cho sự nghiệp giải
phóng nhân loại, là sự mở đầu kỷ nguyên độc lập, tự do của các dân tộc thuộc
địa, bị áp bức trên toàn thế giới.
Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện
lịch sử, một văn bản pháp lý quan trọng bậc nhất của nước ta. Với hệ thống lập
luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng văn hùng hồn, một cơ sở pháp lý vững chắc
khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới,
mở ra thời kỳ mới của dân tộc ta trên con đường phát triển.

Nội dung của Tuyên ngôn Độc lập đã
được các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực nghiên cứu, làm rõ, nhưng hiện vẫn
còn những luận điệu xuyên tạc, đặt câu hỏi với dụng ý xấu: Vì sao Chủ tịch Hồ
Chí Minh lại mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập bằng những câu trích dẫn từ hai bản
Tuyên ngôn của nước Mỹ và Pháp?
Điều này cần phải hiểu và lý giải
rõ.
Một là, Chủ tịch Hồ Chí Minh là Danh
nhân văn hóa thế giới như UNESCO đã tôn vinh, Người nhắc đến hai văn kiện lịch
sử ấy với lòng trân trọng đặc biệt của một trí tuệ lớn đối với sự phát triển
của văn minh nhân loại mà Cách mạng giành độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Cách
mạng Tư sản Pháp 1789 đã giành được. Đây là những thành quả văn hoá của nhân
loại, là dấu mốc lớn của lịch sử loài người, trong đó đã khẳng định những quyền
cơ bản của con người. Đó là "quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc”… “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn
luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối
cãi được”… Đây là những tư tưởng rất tiến bộ đã được khẳng định trong hai bản
Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp. Đó là cách dẫn dắt khéo léo để Chủ tịch Hồ
Chí Minh đi đến kết luận nhằm tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của quốc tế đối
với cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam.

Hai là, trên nền tảng và tiền đề đó,
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng, chính cuộc cách mạng mà dân tộc Việt Nam
đã giành được vào tháng 8/1945 là bước đi tiếp trong sự phát triển của nhân
loại, đồng thời cũng là cột mốc cho sự phát triển của lịch sử giải phóng con
người thuộc các dân tộc bị áp bức, bóc lột. Đó là mẫu hình đầu tiên và cũng là
ngọn cờ đầu của cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa nhỏ yếu thoát
khỏi ách đô hộ, thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và mới mà cách mạng Việt
Nam do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã gương cao.
Ba là, đi sâu nghiên cứu hai bản
Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp, chúng ta thấy cả hai bản Tuyên ngôn đã đề
cao và khẳng định quyền con người: “Mọi người đều sinh ra bình đẳng”. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế
giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do. Chính sự suy rộng ra đã thể hiện một tư tưởng lớn, một luận điểm
quan trọng thể hiện sự vượt trội của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được trình bày
trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam. Đây là một nội dung rất căn bản, có
ý nghĩa không chỉ đối với dân tộc ta mà còn có ý nghĩa sâu sắc đối với thời
đại. Từ đó tới nay, nhiều nước trên thế giới đã và đang liên tục đấu tranh để
giành độc lập, giành quyền dân tộc cơ bản của mình.

Như vậy, có thể thấy, với vốn ngoại
ngữ cùng với thiên tài trí tuệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dịch và trích dẫn Tuyên
ngôn của nước Mỹ, nước Pháp nhưng có sự điều chỉnh và phát triển để thể hiện
quan điểm riêng của mình về quyền con người. Và trên thực tế, tinh thần ấy đã được
thể hiện và khẳng định trong tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam từ trước đến
nay.
Đó chính là sự đóng góp về lý luận
và thực tiễn về quyền con người, đem lại những tiến bộ và phù hợp với sự phát
triển của nhân loại.
75 năm đã trôi qua, những tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 đã trở thành
sức mạnh to lớn đưa toàn dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức,
thực hiện lời thề thiêng liêng trong ngày Lễ độc lập: “Toàn thể dân tộc Việt
Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do, độc lập ấy”.
Với tinh thần đó mà cách mạng Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại
đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong suốt 75 năm qua.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đã và đang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới
toàn diện trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến
rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức.
Để tận dụng, phát huy tốt nhất thời
cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
cần đoàn kết một lòng với quyết tâm cao, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân
tộc, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nâng cao đời sống của nhân
dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đỗ Đức Thuần (giới
thiệu)