Bác bắt
đầu đặt bút viết Di chúc vào ngày 10 tháng 5 năm 1965 và lần sửa chữa cuối cùng
là ngày 19 tháng 5 năm 1969, trước lúc Người đi xa gần 4 tháng. Bản Di chúc chỉ
vỏn vẹn có 1000 từ với mong muốn “để sẵn mấy lời” và “chỉ nói tóm tắt vài việc
thôi” nhưng Di chúc của Người là một văn kiện lịch sử vô giá, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

Theo
đồng chí Vũ Kỳ, thư ký của Bác Hồ, Bác bắt đầu viết những dòng đầu tiên của
bản Di chúc để lại cho muôn đời sau lúc 9 giờ sáng thứ hai, ngày
10/5/1965, đến 10 giờ, Bác viết xong phần mở đầu. Bác xếp tài liệu lại và
chuyển sang làm các công việc thường ngày. Các ngày tiếp theo (ngày 11, 12 và
13/5/1965), cũng vào giờ đó (từ 9 giờ đến 10 giờ), Bác viết tiếp các phần còn
lại. Riêng ngày 14/5/1965, do buổi sáng có lịch đi thăm một hợp tác xã ở ngoại
thành Hà Nội và dự một phiên họp của Bộ Chính trị, Bác chuyển viết Di
chúc sang buổi chiều với thời gian gấp đôi, từ 14 giờ đến 16 giờ. Đúng 16
giờ, Bác đánh máy xong bản Di chúc và cho vào phong bì. Đến 21 giờ
hôm đó, Bác giao chiếc phong bì cho đồng chí Vũ Kỳ và dặn: “Chú cất giữ cẩn
thận, vào dịp này sang năm nhớ đưa lại cho Bác”.
Và cứ đến dịp sinh nhật
Bác hằng năm, đồng chí Vũ Kỳ lại đặt bản Di chúc lên bàn làm việc của
Bác; sau đó Bác bổ sung và giao lại cho đồng chí Vũ Kỳ. Bác đọc kỹ bản Di
chúc, xem xét, cân nhắc kỹ từng đoạn, từng câu, từng ý, từng lời và bổ sung
thêm vào bản Di chúc tùy theo tình hình đất nước. Đặc biệt, qua tình
hình chiến sự miền Nam, Bác lại viết thêm những phần cần thiết vào bản Di
chúc.
Năm 1966, Bác bổ sung thêm
phần nói về tự phê bình và phê bình trong Đảng, trong đó Bác nhấn mạnh: “Phải
có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
Năm 1967, Bác xem lại
bản Di chúc, nhưng không sửa gì. Năm 1968, Bác viết thêm 6 trang, gồm một
số đoạn về việc riêng và một số công việc cần làm sau khi cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước thắng lợi.
Năm 1969, Bác xem và viết
lại toàn bộ phần mở đầu gồm 1 trang viết tay. Ngày 19/5/1969, Bác sửa lần cuối.
Toàn văn Di chúc được công bố sau ngày Bác Hồ qua đời (ngày
2/9/1969).

Có lẽ
chưa có một ai viết di chúc mà vui vẻ, phấn khởi như Bác. Thường thì khi người
ta viết di chúc là khi họ cảm thấy quỹ sống của mình không còn nhiều, họ dặn
dò, trăn trối và hoài niệm, tiếc thương một thời son trẻ đã đi qua. Nhưng Bác
của chúng ta thì hoàn toàn khác, nghĩa là Bác viết Di chúc trong ngày rất vui. Năm 1965, Bác bắt đầu viết Di chúc, văn bản mà Bác gọi là
“bức thư để lại cho đồng bào, đồng chí”, “mấy lời dặn lại trước lúc đi xa” với dòng đầu tiên là “Nhân dịp mừng
75 tuổi”. Việc Bác viết Di chúc
trong dịp sinh nhật thể hiện bản lĩnh văn hóa của Người. Viết Di chúc dịp sinh
nhật, chọn thời điểm 9-10 giờ sáng để viết và sửa Di chúc, nói lên chiều sâu
trong thế giới nội tâm của Bác, bản lĩnh văn hóa, lấy sự sống vượt lên cái chết
của Người.
Điểm
thứ ba cần nhắc lại là, ngày nay toàn Đảng toàn quân và toàn dân ta xem bản Di
chúc là Quốc bảo - bảo vật quốc gia, là di sản bất hủ, là niềm tin chiến thắng và ý chí
quyết tâm giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước; là cơ sở để Đảng ta, Nhân
dân ta xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện nhằm bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì đối với Bác, Bác chỉ
khiêm nhường gọi là “tôi để sẵn mấy lời” hay đơn giản, chỉ gọi đây là một lá
thư “Tháng 5-1968, khi xem lại thư này tôi thấy cần phải viết thêm mấy điểm
không đi sâu vào chi tiết”.
Thứ tư, Bác viết Di chúc vào
khung giờ mà bây giờ chúng ta gọi là “giờ tâm linh” của Bác. Như ta biết, Bác
viết Di chúc vào khoảng thời gian từ 9 giờ đến 10 giờ sáng và kì diệu thay, Bác
ra đi cũng đúng vào khung giờ ấy (Bác trút hơi thở cuối cùng vào lúc 9 giờ 47
phút sáng ngày 02 tháng 9 năm 1969. Nhưng thực tế, trái tim vĩ đại của Người đã
ngừng đập vào hồi 9 giờ, 47 phút là ta kể đến thời gian hồi sức cấp cứu, xoa
bóp cho tim Bác đập trở lại nhưng không thành).
Thứ năm, Bác của chúng ta
không chỉ là người “tri thiên mệnh” (biết được mệnh trời) mà còn biết cả mệnh
của mình. Bằng chứng là trong 1000 từ quý giá của bản Di chúc, Bác chỉ dành cho
mình đúng 79 chữ ở phần “Về việc riêng”. 79 chữ ấy ứng nghiệm với cuộc đời oanh
liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng
và đẹp đẽ của Người, giúp cho Nhân dân ta và bạn bè quốc tế hiểu thêm về tư
tưởng, lý luận, đạo đức, phong cách của một lãnh tụ thể phách đã mất mà tinh
anh muôn thuở vẫn còn.
Suốt đời phục vụ Nhân dân, đất nước, trong Di
chúc Bác không đề cập đến “cá nhân” hay “bản thân”, mà nói “về việc
riêng”, bởi suốt đời Bác phấn đấu cho hạnh phúc của toàn dân. Cái riêng của Bác
hòa trong cái chung của dân tộc. Suốt đời Bác vì dân, vì nước, vì Đảng, nên
không lúc nào Bác nghĩ đến bản thân mình. Trước lúc đi xa, Người “không có điều
gì phải hối hận” vì Bác đã phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân hết sức, hết
lòng. Người “chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn
nữa”.
Trong Di chúc, Bác
đưa ra lời tiên đoán có tính chất khẳng định, như một tất yếu của lịch sử:
“Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể kéo dài. Đồng bào ta có thể hy sinh nhiều
của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi
hoàn toàn” và “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, Nhân dân ta nhất định sẽ
hoàn toàn thắng lợi”.

Nhận định về Di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết “Bản Di chúc tuy rất ngắn
gọn song nó chứa đựng biết bao giá trị tư tưởng và tình cảm, là sự kết tinh một
đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, đem lại sự đổi đời của dân tộc Việt
Nam ta, đồng thời để lại những di sản bất hủ đối với những thế hệ mai sau…”.
Năm nay
chúng ta kỷ niệm 50 năm thực hiện Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những lời căn dặn của Người
trong bản Di chúc ấy dù rất ngắn gọn, dễ hiểu nhưng mang đầy ý nghĩa lớn lao.
Để Đảng ta vững mạnh, ngang tầm với những yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới,
việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
trong Di chúc của
Người là một việc làm hết sức cần thiết. Trong đó, cần chú trọng hàng đầu vấn
đề giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng
cho cán bộ, đảng viên.
BẢO CHÂU