Tôi tên là Hồ Thị Vui, hiện đang là giáo viên, công tác tại trường Mầm non Kim Thủy, huyện Lệ Thủy, Tỉnh Quảng Bình. Trường của tôi công tác thuộc vùng đặc biệt khó khăn của huyện với địa hình phức tạp và hiểm trở khi phải đi qua nhiều khe suối, những vách núi, hay những con dốc ngoằn ngoèo. Trường của tôi có 7 điểm, mỗi điểm cách xa nhau hàng chục cây số với những lớp học mà trong đó có đủ các độ tuổi ngồi chung một lớp.
Tôi
mang trong mình dòng máu người dân tộc Bru - Vân Kiều, là cô giáo mang họ Hồ,
tôi đã trải qua cuộc sống khổ cực khó khăn, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, ba mất sớm một
mình mẹ nuôi bốn chị em nên người, cuộc sống lúc ấy như một đám mây đen bao
trùm và không lối thoát, mẹ tôi một nguời phụ nữ không biết đến con chữ nên khi
chúng tôi được đến trường mẹ luôn cố gắng chu toàn mọi thứ để con được đến
trường được biết đến con chữ. Bằng sự cố gắng của bản thân hôm nay tôi là một
cô giáo bản, tôi khát khao cháy bỏng mang con chữ đến với các em vùng đồng bào
dân tộc thiểu số Bru - Vân Kiều.
Năm nay, tôi đã mạnh dạn xung phong tình
nguyện giảng dạy tại điểm trường An Bai và được nhà trường nhất
trí, một điểm trường cách điểm trung tâm vài chục cây số, đường sá đi lại khó
khăn, phải trải qua nhiều khe suối hiểm trở. Ngày
đầu tiên đến với bản, tôi tưởng chừng như bị say xe máy vì
đường ngoằn ngoèo, lúc thì xuống dốc dài ngun ngút, lúc thì lên dốc cao chót
vót, tôi ngồi sau chị đồng nghiệp mà người run lẩy bẩy. Nhiều lần tôi bảo chị đồng
nghiệp dừng xe lại vì tôi sợ. Tôi chắc chắn rằng: nếu ai đến đây lần đầu chắc
hẳn sẽ có kỷ niệm khó quên. Đó là hết hồn hết vía với con
đuờng đến bản và chắc là trong suy nghĩ không giám đến đây lần hai. Tôi cũng như vậy, tôi tưởng chừng như nhụt
chí. Tôi cảm thấy sợ, cảm thấy lo, phía trước là khát khao mang
con chữ cho các em vùng đồng bào, còn phía sau là gia đình, nhiều đêm
trằn trọc đấu tranh với chính bản thân mình và tôi quyết tâm cắm bản, tôi cảm
nhận được sự thiếu thốn khó khăn và sự thiệt thòi của các em nhỏ, bởi
bản thân tôi cũng đã từng như thế.
Bản An Bai gồm có hai xóm
nhỏ lẻ một xóm bên kia khe với một vài hộ dân sinh sống. Mùa mưa đến làng bị
chia cắt người đồng bào lại thiếu lương thực vì không lên rẫy để bẻ củ khoai củ
sắn được, các con lại phải nghĩ học ở nhà vì nước to chảy xiết, nhiều lần phụ
huynh còn gắng đưa con đi học bằng xì (lốp xe máy) rất nguy hiểm những lần như
vậy tính mạng của các em đặt hết vào thiên nhiên sông nước, tôi thấy mà thương
lắm.
Chúng tôi bắt đầu cuộc hành
trình mang con chữ đến với các em vùng đồng bào dân tộc thiểu số bằng cách đến
từng nhà giải thích tuyên truyền vận động phụ huynh đưa con em đến trường. Đó là cách duy nhất để các em
có một tương lai tươi sáng hơn. Hiểu được nỗi lòng của các bậc phụ huynh nên
tôi đã mạnh dạn xin các mạnh thường quân một chiếc đò để mỗi ngày các em được
đến trường an toàn hơn đó là chiếc đò nuôi hy vọng khát khao mang con chữ đến
cho các em vùng đồng bào tôi và chiếc đò tri thức ấy vẫn ngày ngày đưa các em
đến trường. Mỗi lần ngồi trên chiếc đò mang tri thức đến với các em nhỏ tôi tự
nhủ lòng phải cố gắng nhiều hơn, cố gắng vượt qua những thử thách, khó khăn để
mang con chữ đến với các em vùng đồng bào quê tôi.
Cuộc sống bà con nơi đây rất khó khăn, đa số
các bậc phụ huynh không biết chữ. Trong quá trình giảng dạy em gặp không ít khó
khăn vì các em đều là đồng bào Bru - Vân Kiều nên khi ở nhà luôn giao tiếp bằng
tiếng mẹ đẻ vì vậy khi đi học các em không thể hiểu được tiếng Việt nên giao
tiếp giữa cô và trẻ rất khó. May mắn thay em cũng là người con Bru - Vân Kiều
nên mới đầu em tiếp xúc tạo sự gần gũi yêu thương trẻ để giữa cô và trò có sự
gắn kết, em dùng tiếng mẹ đẻ để giải thích cho trẻ hiểu những từ sinh hoạt hằng
ngày như ăn là “cha đôi”; uống nước là “ngoải đỡ”; đi ngủ là “bể”…Mỗi lần nói tiếng mẹ đẻ xong em phải giải
thích lại bằng tiếng Việt cho các em hiểu. Tôi nghĩ việc tăng cường Tiếng Việt
cho trẻ em Bru - Vân Kiều có tầm quan trọng rất lớn, bởi muốn học chữ trước tiên trẻ phải hiểu
được Tiếng Việt. Bản thân là giáo viên mầm non là nền tảng quan trọng để giúp
các con hiểu được Tiếng Việt từ những câu chuyện, bài thơ, bài hát, các bài
đồng dao, hò vè đơn giản cô sẽ phải mổ xẻ và giải thích từng câu từng chữ và
phải dùng cả hai thứ tiếng để giải thích, nói rất nhiều lần nhưng chỉ một vài
trẻ mới hiểu được thôi vì thế khi các con lên lớp, tôi thường chú trọng tăng cường Tiếng Việt
mọi lúc mọi nơi, các hoạt động trong ngày. Nghề giáo viên mầm non rất vất vả
nhưng để dạy được Tiếng Việt cho trẻ em Bru - Vân Kiều càng khó khăn hơn và là
cả một quá trình lâu dài.Vì thế
bản thân phải luôn cố gắng tìm tòi
những phương pháp để giúp các con dễ hiểu nhất về Tiếng Việt. Tôi luôn động
viên và giải thích cho các bậc phụ huynh hiểu được tầm quan trọng của việc được
đến trường của các em nhỏ trong và ngoài bản mình đang giảng dạy. Từ đó, tôi nhận thấy rằng trẻ của lớp tôi đang giảng
dạy ngày càng tiến bộ, trẻ đã biết nói những từ đơn giản, trẻ giao tiếp với cô
bằng Tiếng Việt. Đó là sự cố gắng của tôi, của phụ huynh và tất cả các cháu.
Bản thân là cô giáo Bru-Vân Kiều được mang
đến con chữ cho con em mình đó là niềm tự hào, vinh dự của tôi và từ đây bản
thân phải luôn nổ lực cố gắng trau dồi đạo đức, phẩm chất chính trị là tấm
gương để cho các em noi theo. Khó khăn vất vả chưa dừng lại ở đó khi mà con
đường tới trường của các em quá cách xa trường phải băng đèo lội suối, phụ
huynh chưa ý thức được tầm quan trọng của việc đi học của các con, cuộc sống
người đồng bào còn nhiều khó khăn, nhà sàn lợp tranh đơn sơ mưa gió dột lui dột
tới, nhà không có cửa, con thì đông, ruộng đồng không có, mỗi ngày họ lên rẫy
hái một ít cà, nhổ vài củ sắn để đổi lấy gạo ăn qua ngày vì thế mà việc cho con
đi học trở nên khó khăn hơn. Mỗi ngày đến trường, bản thân em và đồng nghiệp
phải đến thật sớm tìm gặp phụ huynh giải thích cho họ hiểu rằng trẻ phải được
đến trường, trẻ xứng đáng nhận được sự quan tâm của thầy cô, bạn bè, trẻ được
quyền vui chơi và có một môi trường sống lành mạnh, trẻ cần được học tập… Có
những ngàytôi phải đến từng nhà cõng các con qua những con suối, qua từng cái
đèo tới trường. Bản thân tôi là một người giáo viên trẻ, mang trong mình những
hoài bão, ước mơ cháy bỏng, ước muốn về người đồng bào dân tộc thiểu số không
những được “ăn no mặc ấm” mà được “ăn ngon mặc đẹp”, các con được tới
trường như bao bạn bè ở mọi miền khác. Với ước muốn nhỏ nhoi đó, với một giáo
viên trẻ như tôi để góp phần mang con chữ đến đồng bào Bru-Vân Kiều thì bản
thân luôn không ngừng phấn đấu tìm tòi học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, trau dồi đạo đức, luôn gương mẫu và là một giáo viên yêu nghề mến
trẻ được phụ huynh yêu mến tin tưởng. Bản thân luôn tìm tòi những đồ dùng đồ chơi nhằm phục vụ cho các con trong quá
trình học tập bằng việc sưu tầm những nguyên vật liệu có sẵn trong thiên nhiên
như chai, lọ, long bia, hộp sữa, viên đá khe suối.. để làm nên những đồ dùng đồ
chơi mới lạ kích thích sự tò mò của trẻ , giúp trẻ thích đến trường hơn, khám
phá được nhiều đồ chơi mới mẻ vừa nâng cao tay nghề cho bản thân. Với phương
châm dạy học lấy trẻ làm trung tâm, tôi luôn cho trẻ được trải nghiệm chứ cô
không làm thay trẻ, trẻ tự phục vụ và lựa chọn theo sở thích của mình.
Với tấm lòng yêu nghề, mến
trẻ, dù trải qua bao vất vã để bám trường, bám lớp, tận tình dạy chữ cho các em
nhỏ nơi đây. Bởi tôi luôn nhận thức rằng đằng sau những khó khăn vất vả của bản
thân là cả một tương lai tươi sáng đang chờ đón các con và món quà quý nhất đối
với bản thân tôi là hằng ngày nhìn thấy các con luôn chăm ngoan, học giỏi, vâng
lời cha mẹ, các con được đến trường như bao bạn bè cùng trang lứa khác ở trên
mọi miền Tổ quốc, lớn lên các con trở thành những chủ nhân tương lai xây dựng
bản làng có một cuộc sống ấm no và hạnh phúc.
Hồ Thị Vui – Trường MN Kim Thủy
Giáo dục và Đào tạo Quảng Bình – Số 22. Tr 107