Mấy ngày nay, những cơn mưa dữ dội liên tục dội xuống xã Lâm Thủy (Lệ Thủy). Bản làng im lìm sau cánh rừng với bạt ngàn cây keo, cây bạch đàn. Chẳng còn những cây lim, cây táu…nhiều người ôm không xuể nữa, già làng Hồ Truôi nhìn xa xăm: “Cây rừng bỏ đi đâu hết rồi, may sao con suối vẫn còn. Mây trắng vẫn đậu trên đỉnh núi sớm sớm. Người Bru-Vân Kiều ở bản như rễ cây bám đất. Thế là mừng lắm rồi!”.
Ở vùng biên viễn này, đầu
mùa mưa các con suối cuộn chảy qua những rặng đá lởm chởm. Nước tung bọt trắng
xóa, hả hê tung chạy về xuôi. Con suối như chiếc cầu ánh sáng lấp lánh, tỏa khắp.
Mờ sáng, từ bản Xà Khía, ngược lên bản Bạch Đàn mây trắng trời, bềnh bồng. Con
đường nông thôn mới chạy dọc vách đá gồ ghề, sắc nhọn. Dõi mắt ra xa, thung
lũng bạt ngàn mây cứ bám vào thăm thẳm triền dốc. Khi xe vào tận bản mới thấy
yên tâm vì bỏ lại một đoạn đường trơn trượt, nhỏ bé. Ngồi bên bếp, lửa dưới mái
nhà sàn, già làng Hồ Truôi uống chén rượu sắn nồng thơm mới thấy hết ý vị khi đến
nơi đây.
Già làng lấy tay lật thanh củi
đang bùng cháy, tia lửa bắn lên như que diêm vụt sáng, rồi trầm ngâm ôn ngày
cũ. Câu chuyện như lạc đi trong mưa gió bão bùng. Nguyên là cán bộ xã trong những
năm 1990 của thế kỷ trước, già làng Hồ Truôi được xem là một trong ít người có
chữ ở bản Bạch Đàn. Ông đã từng được đi học cái chữ của Bác Hồ, được tham gia
làm cán bộ lãnh đạo, giữ chức Chủ tịch Ủy ban MTTQVN xã, HĐND xã Lâm Thủy mấy
khóa liên tục. Đã về nghỉ chế độ nhiều năm, ông vẫn cùng con cháu chăm lo cái rẫy,
nuôi nấng đàn heo để có thêm cái ăn, giúp các cháu đi học.
Trong 58 hộ ở bản Bạch Đàn
ai ai cũng chăm chỉ làm ăn. Họ tin rằng cây lúa, cây ngô, củ sắn… không phải tự
dưng mà có, chúng phải từ bàn tay con người mọc ra. Thanh niên ở bản đã biết đi
TP. Hồ Chí Minh làm công nhân, một vài đứa đi học nghề cơ khí. Lũ trẻ đến trường
đều đặn để học con chữ. Từ đây, bản làng biết cách trồng lúa tốt tươi, năng suất
cao. Những vạt lúa nước trên đồi sây trĩu, thân lúa to hơn nhờ công người chăm,
lúa nhiều hạt hơn nhờ con chữ. Giờ đây, bà con dân bản đã mua xe máy, sắm tivi
thông minh, giàn karaoke vang vang mỗi tối.
Đêm ở rừng, nghe tiếng suối
reo, ánh mắt chập chờn bên bếp lửa mới thấy hết sự mênh mông của vũ trụ. Cơn
gió rít lên từng hồi, áp vào mái nhà sàn sạt như roi quất. Già làng Hồ Truôi
nhìn sang tôi:
- Đường vào bản chỉ nên đi
vào ban ngày. Đêm đến, nhất là có mưa, thầy không nên đi lại vì rất nguy hiểm.
Hôm nay, thầy ở lại bản cùng già uống vài chén rượu cho vui. Khi nào nghe con
vượn hú chúng ta sẽ đi ngủ.

Những đồi sắn bạt ngàn.
Ở bản Bạch Đàn mới 21 giờ,
vượn đã hú vang. Chắc chuyển mùa nên đàn vượn lạnh, tìm nhau hơi ấm. Kể từ ngày
có con đường, bầy vượn đi sâu hơn vào rừng. Đêm nằm trên mái nhà sàn, thật thú
vị. Hơi ấm từ bếp lửa tỏa ra khắp đêm tối.
Già làng Hồ Truôi kể, bây giờ đã có đường vào bản. Trước kia muốn vào đây phải
đi bộ qua 9 con suối, về mùa mưa nước ngập ngang bụng, chỉ có thanh niên và người
khỏe mới vượt qua được. Bản làng bị cô lập hàng tháng trời. May sao, bà con
trong này tự cung, tự cấp lương thực và thực phẩm được. Chỉ thèm nhất là muối
và đường thôi! Tiếng nổ li ti của những thanh củi đang cháy như đượm thêm câu
chuyện.
- Bản làng đã hoàn toàn thay
đổi. Ở đây, muốn mua gì cũng có, từ trang thiết bị điện, đến dụng cụ sản xuất
nông nghiệp hay các loại lương thực, thực phẩm đều đầy đủ. Cách đây 3 năm thôi,
bà con phải cõng đồ vật mua được băng qua 10km đường suối nên vô cùng khó khăn.
Giờ chạy xe máy đi 15 phút là mọi thứ đều có đầy đủ rồi.
Trước đây, vì không có đường
vào bản, thêm vào đó do tập quán canh tác lạc hậu, nuôi thả rong gia súc diễn
ra phổ biết nên dân bản làm không đủ ăn, trông chờ vào việc săn bắt thú rừng và
khai thác gỗ. Biết bao cánh rừng quằn quại, chảy máu và nhanh chóng biến mất
trước bàn tay của con người. Hạt gạo, cây lúa trở nên hiếm hoi khi con người
không biết trồng lúa nước, quanh năm người dân bản quen nhìn mây trắng vắt
ngang những mỏm đá sắc nhọn chông lên giữa trời xanh.
Nhưng đá và mây không phải
là gạo để nuôi sống con người. Đói nghèo từ đó bủa vây. Giờ mọi thứ đã hoàn
toàn thay đổi. Con đường đã thay đổi nếp nghĩ, cách làm và lối sống của bà con.
Nhưng công cụ sản xuất như máy gặt, máy tuốt lúa, máy cày đã biến những ruộng
lúa, nương sắn bội thu. Cứ mỗi lần nhìn bà con ra xã họp với khuôn mặt rạng ngời,
chúng tôi không khỏi xúc động.
Nhớ lại, chặng đường từ năm
1992 khi già làng Hồ Tình dẫn vài hộ dân ở bản Xà Khía, bản Tăng Ký đi tìm vùng
đất mới để sinh sống thật gian nan, vất vả. Do thiếu đói, bệnh tật lây nhiễm
nên bà con tin rằng con ma đang đuổi theo để hại người. Vả lại, không có đất
canh tác nên họ phải đi tìm đất mà sống. Cũng phải đi thôi, ở lại chắc sẽ chết
vì đói hoặc vì bệnh. Dẫn đầu là già làng Hồ Tình sau đó là các cặp vợ chồng dắt
díu con cái mình đi theo. Họ bám theo lối mòn heo hút mà đi, đến khi qua hết
các con suối đến một thung lũng rộng, khá bằng phẳng trên dãy núi cao thì dừng
lại chặt cây rừng và dựng tạm những căn nhà để ở.
Hàng ngày, người lớn tay cuốc,
tay dao, phát nương, phát rẫy. Sau đó, họ lấy những bọc hạt giống ra gieo hạt.
Nhờ đất đai tốt tươi nên vụ thu hoạch đầu tiên, 10 hộ di dân có lúa, xếp đầy
trên gác bếp. Thời gian tiếp nối, bà con được cán bộ khuyến nông huyện, Bộ đội
Biên phòng Làng Ho dạy cho cách trồng lúa nước, cách chăn nuôi hiệu quả nên họ
có những mùa bội thu. Từ đó, bản Bạch Đàn thay da đổi thịt, thành vùng xanh của
xã Lâm Thủy.
Đến với bản Bạch Đàn hôm
nay, mọi người như đứng trước một thung lũng bồng bềnh mây trắng. Những nướng sắn
xanh rì, chạy hút tầm mắt, những thửa ruộng vỡ hoang cheo leo bên sườn núi như
bức tranh điểm tô núi rừng. Không có con số thống kê đầy đủ, nhưng ở bản Bạch
Đàn, trung bình mỗi hộ gia đình thu hoạch 3 tấn sắn. Sắn trở thành hàng hóa, một
phần cung cấp cho các tư thương, một phần dành để đầu tư chăn nuôi gia súc, gia
cầm. Con lợn, con gà, con bò được ăn khá đầy đủ và chạy khắp núi được nhiều người
ưu chuộng, mang xuống chợ bán được rất nhiều tiền.
Từ số tiền ấy, bà con phục vụ
cho việc tái đầu tư sản xuất, mua sắm sách vở cho đám trẻ con đến trường học chữ.
Giữa nơi chỉ có mây trắng bay, dù còn nghèo khó nhưng cái việc cho con đi học
luôn được quan tâm đầu tư có ý thức. Ở bản Bạch Đàn, tỷ lệ học sinh đến trường
100% và trong 10 năm qua không có học sinh nào bỏ học. Có em học sinh lớp 8 đã
từng đạt giải nhì cấp tỉnh môn bơi lội, nhiều em là học sinh giỏi cấp trường, cấp
huyện.
Nằm nghe mưa rơi và nghe từng
trận gió san sát vào vách núi, tôi khẽ kéo chiếc áo khoác trùm lên người. Ngoài
kia, tiếng đàn vượn vẫn gọi nhau từng hồi dài, những thanh củi cháy đượm rụng
xuống như cời rộng lòng bếp. Hình ảnh những bước chân chắc đậm như cây lim, cây
táu trong hành trình khai phá vùng đất mới của bà con dân bản cứ hiện về.
Khi trở về nhà, nhớ lại đêm ở
bản, tôi chợt nghĩ có một bản Bạch Đàn văn minh, đầy sức sống hiện ra dưới bóng
núi đại ngàn. Bên dòng suối, mây trôi về xuôi tiếng hát cô sơn nữ đang giặt áo.
Những tiếng cồng chiêng của bà con vang lên bên ngọn lửa như cháy lòng những ai
từng đến đây. Để giờ đây, khi nhớ đến mảnh đất này, tôi mang theo chén rượu đêm
và mang bờ vai nghiêng con suối cùng màu trắng mây trời.
Ngô Mậu Tình