Tôi có may mắn được gặp gỡ, quen biết với nhiều nhân vật nổi tiếng của Lệ Thủy như cố thi sĩ Hải Kỳ, Hoàng Vũ Thuật, Ngô Minh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Đình Ty… qua nhà giáo Diệp Minh Luyện. Thời gian thấm thoắt thoi đưa, hơn nửa các nhà thơ đã tìm gặp nhau dưới cửu tuyền. Tôi tin họ vẫn tiếp tục đọc thơ cho nhau nghe bên cửa biển Nhật Lệ, cùng nghiệm lại bao nỗi dâu bể của chốn trần gian đã trải qua. Thật trùng hợp khi trở lại Đồng Hới, tìm về nơi cách đây 20 năm, chúng tôi lại nghe thầy Trần Đồng trầm nhiên thảng thốt những câu thơ cháy lòng của thi sĩ Hải Kỳ: “Chao ôi cây nối liền cây/Người sao chẳng biết cầm tay với người/Giữa rừng em với mình tôi/Lặng im giấu một khoảng trời Thiên An”.

Cố nhà giáo, nhà thơ
Hải Kỳ (người đứng bên phải)
NGƯỜI THƠ TRÊN BỤC
GIẢNG
Thầy giáo Hải Kỳ (1949-2011) có một tuổi thơ cay đắng khi mới
5 tuổi đã xa cha biền biệt do một lần từ Huế ra Quảng Bình cùng mẹ. Ông lớn lên
và học tiểu học, trung học cơ sở ở Đồng Hới. Sau đó, vì chiến tranh quá ác liệt,
mẹ cho sơ tán lên Lệ Thủy. Những năm học THPT tại quê nội, ông cùng lớp với Lâm
Thị Mỹ Dạ, Ngô Minh, Đỗ Hoàng, Lê Đình Ty, Nguyễn Minh Hoàng... Những người thầy
ảnh hưởng sâu sắc đến con đường sư phạm của Hải Kỳ sau này là thầy giáo dạy văn
tài hoa, nổi tiếng Lương Duy Cán (nhà thơ Hà Nhật) và Phan Ngọc Thu. Tác giả
bài thơ nổi tiếng "Một khúc tâm tình của người thủy thủ" (Hà Nhật)
năm 2017 ra Lệ Thủy thăm nhà thơ Đỗ Quý Dũng và các học trò của mình đã nhắc: “Nhớ Trần Văn Hải (Hải Kỳ) lắm.
Khi còn học cấp 3, tôi đoán thế nào cậu ấy cũng đi theo sư phạm. Đó là con đường
duy nhất vì lý lịch có “cha đi Nam”. Hải đọc thơ hay và có cá tính mạnh, khi
nào cậu ấy cũng nghiêm túc trong học hành và có những phát hiện rất mới trong mỗi
bài tôi dạy”.
Năm 1968, Hải Kỳ hoàn thành học cấp tốc sư phạm hai tháng,
cùng thời gian đó mẹ ông mất trong một vụ máy bay Mỹ bắn rocket ở Cầu Rào, Đồng
Hới. Đến năm 1980, ông mới vào học khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Huế. Tốt
nghiệp Đại học Sư phạm, Hải Kỳ về dạy các trường THCS ở Đồng Hới. Cho đến bây
giờ, các thế hệ học sinh từng học với ông vẫn luôn nhớ hình ảnh một thầy giáo
lúc nào cũng mặc com-lê, đeo cà vạt, tóc tai gọn gàng, giảng văn lúc trầm lúc bổng
vừa khắc sâu vừa quyến rũ, vừa khoa học vừa sáng tạo. Với ông dạy học là nghề.
Đã là nghề thì phải tinh thông, biết mười mới nói được một. Người thầy thì luôn
phải chỉn chu trong ăn mặc và mô phạm từng giây từng phút ở mỗi giờ lên lớp.
Ông có lối giảng văn bình thản, không bị gò bó ở sách giáo viên và các tập sách
soạn sẵn. Vì thế, mỗi giờ lên lớp là một sáng tạo, đồng hiện với người nghệ sĩ.
Học sinh học văn với ông thi thoảng vỗ tay, mắt tròn xoe nuốt từng câu, từng chữ.
Học với Hải Kỳ là may mắn, bởi ông dạy văn với triết lý gắn văn với cuộc sống.
Học sinh có thể thấy, có thể gặp, có thể vui, buồn, giận hờn và hạnh phúc với
các nhân vật văn học như thể ngoài đời thực vậy.
Lúc sinh thời, ông
trao đổi với tôi về cách học Truyện Kiều, cách làm ngoại khóa văn học. Ông chỉ
bày cho tôi từng chi tiết nhỏ khi soạn các phân môn Ngữ văn. Với ông, đã dạy
Tiếng Việt thì phải khoa học như dạy toán, dạy Văn thì phải làm bật được cái
thần văn bản. Theo ông, học sinh học xong một tác phẩm văn học chỉ cần các em
thuộc một đoạn văn, khổ thơ và nhớ một chi tiết nào đó đã là thành công. Ông
lên án văn mẫu, thậm chí cho rằng dạy theo văn mẫu là bi kịch của sáng tạo, hủy
hoại văn chương.
Trong một lần thao
giảng đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”
(Ngữ văn 9), ông say sưa đàm thoại với học sinh và bất chợt hỏi: “Theo các em, qua nét vẽ của đại thi hào
Nguyễn Du,Thúy Vân khác Thúy Kiều ở chỗ nào?”. Câu hỏi không có gì mới
nhưng phần thảo luận vô cùng sôi nổi bởi học sinh tự do phát biểu. Cuối cùng
ông chỉ mỉm cười và nêu vấn đề: Cả hai chị em Kiều đều rất đẹp, đẹp nghiêng
nước nghiêng thành nhưng các em chú ý khi tả Thúy Vân, đại thi hào Nguyễn Du
không vẽ đôi mắt mà chỉ nhắc “Khuôn trăng
đầy đặn, nét ngài nở nang”, còn riêng Thúy Kiều, đại thi hào tập trung vào
đôi mắt và chính đôi mắt ấy khắc họa tâm hồn và đời sống bên trong của nhân vật
này “Làn thu thủy, nét xuân sơn”. Nếu
tôi là người họa sĩ, khi vẽ tranh hai nàng, tôi sẽ vẽ Thúy Vân không có mắt.
Đoàn giáo sinh thực tập chúng tôi vỡ òa, đồng cảm, vui sướng. Cuối tiết dạy,
ông dặn tôi: “Riêng Ngô Mậu Tình thầy mới nói, dạy văn phải thế. Nếu cứ rập
khuôn máy móc theo sách vở, học sinh chán lắm vì các em đọc trước rồi, soạn
rồi, biết rồi”. Ông nói với tôi, em biết không, Nguyễn Du rất dụng ý khi cho
nhân vật Thúy Kiều gặp Kim Trọng sau khi vừa mới khóc than cho Đạm Tiên - một
kĩ nữ bạc mệnh “nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương”. Đây là dự báo cho
một cuộc tình buồn “dư nước mắt”.
Những năm dạy ở Trường
THCS Nam Lý, thầy giáo Hải Kỳ đọc thơ cho học sinh nghe sau mỗi tiết học, gặp
sinh viên thực tập yêu văn chương, thầy tặng thơ. Rồi có khi thầy kéo ra sân
nói chuyện, chiếc cà vạt màu đỏ cứ lấp
lánh trên ngực, thầy mải miết nhấn mạnh sự cần thiết phải rèn luyện cách đọc
thơ, đọc văn, cách xây dựng dàn bài tập làm văn, cách viết bảng sao khoa học,
cách dụ mê học sinh đến với con chữ. Có lần, thầy dạy thao giảng bài “Thương
vợ” của Trần Tế Xương, các giáo viên góp ý nên theo sách hướng dẫn bài soạn của
giáo viên. Thầy trao đổi lại: "Ai rơi vào cảnh của ông Tú mới hiểu được
nỗi đau vì sự bất lực với manh áo, miếng cơm. Câu kết “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc /Có chồng hờ hững cũng như không” là
tiếng chửi đời, nhưng cũng là tiếng chửi bản thân vô dụng. Thương lắm, xót lắm
cho những ông Tú ngày xưa và cử nhân như tôi ngày nay."
Với mỗi giờ dạy, ông rất
khắt khe với chính mình. Các câu hỏi và vấn đề thảo luận nêu ra bao giờ cũng có
ý tưởng mới mẻ, phá cách. Cố nhà giáo Diệp Minh Luyện, người bạn tâm giao của
ông đã nhận xét: "Anh Hải Kỳ luôn tìm tòi, phát hiện. Giờ dạy của anh như
được sân khấu hóa bằng ngôn ngữ. Từ cách ăn mặc, tác phong trên lớp là tấm
gương cho các giáo sinh thực tập và đồng nghiệp học hỏi". Tất nhiên, ông
không bao giờ soạn thay cho đồng nghiệp. Sự gợi mở, kích hoạt tư duy là vấn đề
nhà thơ Hải Kỳ đã làm hơn 20 năm về trước. Có đồng nghiệp thắc mắc sao khi đứng
lớp ông khắc nghiệt với cả chính mình. Nhà thơ Hải Kỳ chỉ cười, nếu không thế
thì sau mấy chục năm, học sinh sẽ cười mấy ông thầy này. Lúc tham gia cùng đoàn
tổng kết thực tập sư phạm, khi được mời tham gia phát biểu, ông bày tỏ ước vọng
sẽ có một “thánh đường văn chương” ở trường học một cách đúng nghĩa. Điều này,
cho đến hiện nay vẫn đang là mơ ước của nhiều người.
VÀ NẰM ĐẾM TRỜI SAO
Với nhà thơ Hải Kỳ sự chân thật và không đánh mất mình sẽ làm
nên chất sống, giúp người nghệ sĩ tìm ra hạnh phúc và sự sáng tạo. Ông đã nhận
ra tình yêu là sự cứu cánh cho những bất hạnh, khổ đau. Cũng nhờ nó mà lúc nào
tình cảm của con người cũng như vừa mới xảy ra, như thuở ban đầu: “Đêm này đêm Chúa giáng sinh / Tình yêu tôi
cũng tượng hình đêm nay / Chúa Trời dang rộng cánh tay / Trên cây thánh giá lưu
đày khổ đau / Tình yêu tôi cũng nhiệm mầu / Đóng đinh tôi ngàn thuở đầu trang
thơ / Thiên thần cánh trắng như mơ / Trong tôi bay liệng bây giờ là em... (Dạ
khúc Noel)
Có lẽ nỗi đau xa cha, mất mẹ từ nhỏ cùng sự nhọc nhằn trên
con đường lập nghiệp, mưu sinh đã mang đến cho chàng thi sĩ này những trải nghiệm
và sự nhạy cảm với cái đẹp. Ông làm thơ từ thời học sinh phổ thông trung học,
bùng nổ nhất là 04 năm học ở Trường Đại học sư phạm Huế. Cho đến khi giã từ thế
giới, Hải Kỳ đã xuất bản 5 tập thơ: Ngọn
gió đi tìm (1987 - tái bản 2001); Đồng vọng (1989); Nằm đếm trời sao (1997); Đối thoại lục bát (1999); Giấc mơ (2009). Theo nhà thơ Ngô
Minh, ông có nhiều bài thơ hay, ám ảnh như bài thơ Mẹ tôi, Tôi ra cửa biển, Tôi và em với Thiên An,
Người phu mộ, Tôi nhìn cho đến... có nhiều câu thơ tuyệt hay được
chọn trong tuyển “Những
câu thơ tài hoa Việt Nam”... Trong các tuyển tập thơ quan trọng như Thơ Việt Nam thế kỷ XX (Nxb.
Giáo dục), Tuyển tập thơ
Việt Nam 1975 - 2000, Nhà văn Việt Nam hiện đại Quảng Bình, Thơ miền Trung thế
kỷ XX, Hai thập kỷ thơ Huế, 700 năm thơ Huế, Thơ 20 năm Sông Hương đều
tuyển chọn những chùm thơ hay của ông.
Hải Kỳ nằm đếm trời sao bằng cây đàn của riêng
mình. Ông đã làm mới chính bản thân và thơ ca qua những phát hiện, sáng tạo độc
đáo. Điều nhà thơ nói ngày hôm qua nhưng còn mới tươi, ám ảnh: “Tôi xin đăng ký dại khờ/
Để khôn ngoan chết bên bờ sông thương..." Đọc thơ ông, thế giới nghệ thuật hiện
lên vừa gần gũi, thân quen vừa đằm sâu, triết lý. Ở đó người đọc không chỉ cảm
nhận những mắc xích, ràng buộc níu kéo hồn người mà còn được dẫn dụ vào đời
sống thường ngày với những vui buồn, khổ đau và ước mơ, ngóng vọng: “Tôi mang ơn người, mang ơn nụ cười trong
trẻo thơ ngây/như ốc đảo xanh tươi lữ hành sa mạc/Là tôi, loài thi sĩ đam mê nụ
cười của loài hoa, loài thảo mộc/Dù đó là phù dung, là cỏ xanh, cỏ mặt trời/và
cả gai ngọn xương rồng/Nhưng nụ cười của em mỗi sáng ban tặng cho tôi/là bình
minh của thơ ca báo trước ngày tuyệt đẹp/Để tôi không còn buồn những hoàng hôn
mỗi khi đối diện với mình/Cỏ ơi, cỏ xanh mượt mà thơm thảo của tôi ơi !...”
Nhà thơ Hải Kỳ có
những câu thơ tài hoa lưu lại hậu thế, chúng tôi chuyền tay nhau chép vào sổ
yêu thơ để đọc, để ngẫm và để tự suy luận những triết lý có trong thơ ông: “Nếu mà tôi chẳng gặp em/ Làm sao tôi biết
chiều êm mặt hồ/ Không gian lên núi tôi chờ/ Thời gian xuống nhẹ như tờ thư
rơi… (Nếu mà tôi chẳng gặp em); Tiếng
con chim Phật nghe rồi/ Cứ nghi hoặc đấy là lời hư vô/ Như là từ xửa từ xưa/ Khổ đau luyện mãi mà chưa thoát trần… (Thăm
Chùa Báo Quốc).
Đời giáo và đời thơ
của Hải Kỳ quyện vào nhau như làm một. Nếu thơ đưa ông đến với công chúng cả
nước thì dạy học đưa các thế hệ học trò đến với thế giới của cái đẹp lên ngôi.
Ông là người không màng danh lợi, chỉ biết sống hết mình với thơ và nghề gõ đầu
trẻ. Vì thế, ông đã tận hiến cho văn chương đến hơi thở cuối cùng: “Nếu ngày tôi chết, em ơi/Xin chôn Thơ xuống
cùng nơi tôi nằm/Dù tôi ngủ giấc nghìn năm/Cây Thơ xanh - rễ từ tâm xanh đầy”.
Riêng tôi, vẫn nghe đâu đây tiếng nhà thơ Hải Kỳ đang đọc vang vang: “Câu này vần của ngày xưa, Câu này điệu của
bây giờ lạ không?”
Ngô Mậu Tình