NHỮNG CỐNG HIẾN CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÂN DÂN TA
Sinh ra từ vùng quê giàu truyền thống yêu nước, trực tiếp
chứng kiến cảnh đồng bào bị bè lũ thực dân và tay sai đàn áp, bóc lột đã nung
nấu trong Võ Nguyên Giáp ý chí sôi sục và quyết tâm đứng lên đấu tranh giành
lại độc lập cho dân tộc.

1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Người chiến sĩ cách mạng kiên trung, người học trò
xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Năm 1925, khi còn là học sinh, do sớm được tiếp thu tư
tưởng cách mạng của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Võ Nguyên Giáp đã tích cực tham gia
phong trào đấu tranh, bãi khóa ở trường Quốc học Huế; tham gia Đảng Tân Việt
cách mạng (năm 1927); tham gia phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, bị thực dân Pháp
bắt giữ và bị giam ở nhà lao Thừa Phủ, Huế (năm 1930). Cuối năm 1931, nhờ sự
can thiệp của Hội Cứu tế đỏ của Pháp, Đồng chí được trả tự do. Khi ra tù, mất
liên lạc với tổ chức, Đồng chí ra Hà Nội dạy học ở Trường tư thục Thăng Long,
viết báo tuyên truyền xây dựng cơ sở cách mạng trong thanh niên, học sinh, đồng
thời tiếp tục học Đại học Luật và Kinh tế.
Năm
1940, đồng chí Võ Nguyên Giáp với bí danh là Dương Hoài Nam cùng với đồng chí
Phạm Văn Đồng được cử sang Trung Quốc gặp Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tháng 11/1941, trở về Cao Bằng, dưới sự lãnh đạo,
dìu dắt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đồng chí Võ Nguyên Giáp cùng các đồng chí
khác xây dựng cơ sở cách mạng, tích cực tuyên truyền, giác ngộ quần chúng, lôi
cuốn đồng bào các dân tộc tham gia các hoạt động cách mạng, tổ chức và phụ
trách Ban xung phong Nam tiến, mở đường nối căn cứ địa cách mạng Cao Bằng với
các tỉnh miền xuôi.
Tháng 12/1944, Đồng chí được Lãnh tụ Hồ Chí Minh giao
nhiệm vụ thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, tổ chức tiền thân
của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ngay sau đó, Đồng chí đã chỉ huy Đội đánh thắng
hai trận đầu ở Phai Khắt, Nà Ngần. Trên các cương vị là Ủy viên Ban Chấp hành
Trung ương, Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, thành viên Ủy ban
khởi nghĩa toàn quốc, thành viên Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, Tư lệnh
Việt Nam giải phóng quân, Đồng chí đã có những đóng góp quan trọng vào thắng
lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng
nổ; dưới sự chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với cương vị Tổng tư lệnh
Quân đội kiêm Bí thư Quân ủy Trung ương, Đồng chí đã cùng Trung ương Đảng lãnh
đạo cuộc đấu tranh vũ trang kéo dài 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược (1945 -
1954) giành thắng lợi. Với vai trò là Tổng Tư lệnh chiến dịch, Bí thư Đảng ủy,
Đồng chí đã chỉ huy nhiều chiến dịch quan trọng, như: Chiến dịch Biên Giới
(9-10/1950), Trung Du (12/1950), Đồng Bằng (5/1951), Hòa Bình (12/1951-
2/1952), Tây Bắc (10-12/1952), Thượng Lào (4-5/1953). Đặc biệt, năm 1954 được
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng trao quyền trực tiếp chỉ huy Chiến dịch
Điện Biên Phủ, Đồng chí đã chỉ huy các đại đoàn của Quân đội và các lực lượng
tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, đánh bại đội quân nhà nghề của thực
dân Pháp, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta làm nên Chiến thắng
lịch sử Điện Biên Phủ buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ
chiến tranh, khôi phục hòa bình ở Đông Dương, giải phóng hoàn toàn miền Bắc
nước ta.
Hiệp định Giơnevơ ký kết chưa được bao lâu thì đế quốc Mỹ
đã nhanh tay hất cẳng Pháp, biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự Mỹ, âm
mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Trước tình hình cách mạng mới, Đại tướng đã
cùng Trung ương Đảng lãnh đạo toàn dân, toàn quân tiến hành đồng thời hai nhiệm
vụ chiến lược là xây dựng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh cách
mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, lần lượt đánh bại các chiến lược
chiến tranh của đế quốc Mỹ xâm lược, làm nên những thắng lợi vẻ vang mà đỉnh
cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thu non sông về một mối, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đất nước hòa bình, thống nhất, trên cương vị là Bí thư
Quân ủy Trung ương (đến năm
1978), Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đồng chí đã
cùng tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội lãnh đạo toàn dân, toàn quân
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, tiến hành công cuộc đổi mới đất nước.
Năm
1980, Đại tướng thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhưng vẫn tiếp tục là Ủy
viên Bộ Chính trị (đến năm 1982) và Phó Thủ tướng phụ trách khoa học - kỹ
thuật.
Năm
1991, Đại tướng nghỉ hưu ở tuổi 80. Từ năm 1992 đến lúc từ trần, Đại tướng là
Chủ tịch danh dự Hội Cựu chiến binh Việt Nam; Chủ nhiệm Đề tài: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam”, kiêm cố vấn chương trình khoa học
cấp Nhà nước về “Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh”; Chủ tịch danh dự Hội khoa
học lịch sử Việt Nam; Chủ tịch danh dự Hội khuyến học Việt Nam; Chủ tịch danh dự Quỹ hỗ trợ sáng tạo khoa học kỹ thuật
Việt Nam; Chủ tịch danh dự Hội Cựu giáo chức Việt Nam.
Trọn
cuộc đời gắn bó với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, ở Đại tướng Võ
Nguyên Giáp luôn sáng ngời phẩm chất cao quý của người chiến sĩ cách mạng kiên
trung, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, suốt đời tận tụy
hy sinh, một lòng, một dạ phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cộng sản. Dù trong
lúc cách mạng gặp thuận lợi hay khó khăn, Đồng chí vẫn tin tưởng, thủy chung,
son sắt với Đảng, với Nhân dân, đúng như lúc sinh thời Đồng chí đã từng nói
“Tôi sống ngày nào, cũng là vì đất nước ngày đó”.
Đại
tướng là người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trước,
trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, trong cuộc kháng chiến chín năm, Đại tướng
được sống và làm việc bên cạnh Bác Hồ, được Bác Hồ giáo dục, rèn luyện và trao
cho nhiều trọng trách trên các lĩnh vực quân sự, chính trị, ngoại giao... Đại
tướng đã nỗ lực phấn đấu học tập ý chí, tư tưởng, đạo đức, tác phong, lối sống
của vị Lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh, luôn luôn tu dưỡng rèn luyện, nói và làm
theo gương Bác Hồ vĩ đại.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Đại tướng Võ Nguyên
Giáp rất coi trọng tổng kết thực tiễn và
chính từ đó Đồng chí càng hiểu sâu sắc hơn tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đồng chí là một trong những người sớm
nghiên cứu và viết về Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách cơ bản, toàn
diện, hệ thống và đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu, vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt đã góp phần xây dựng nền móng cho bộ môn
khoa học Hồ Chí Minh học. Với ba chuyên luận: “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con
đường cách mạng Việt Nam”, “Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh”, “Thế giới đổi thay, tư tưởng Hồ Chí Minh còn sống mãi”, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp đã góp phần đưa tư
tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống, trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong thời kỳ mới.
Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực quân sự là mạch xuyên
suốt chủ đạo trong quá trình hoạt động cách mạng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Đại tướng vẫn luôn nhắc nhở chúng ta điều có ý nghĩa quyết định trong việc học
tập tư tưởng Hồ Chí Minh là phải làm theo và làm đúng tư tưởng của
Người.
2.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng Tư lệnh - Người Anh cả của Quân đội Nhân dân
Việt Nam đã có công lớn xây dựng một đội quân hùng mạnh, góp phần quyết định
cùng toàn dân đánh thắng hai đế quốc là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược
Đồng
chí Võ Nguyên Giáp được phong quân hàm Đại tướng và trở thành vị Đại tướng đầu
tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Đảm nhiệm trọng trách lớn lao khi tuổi đời
còn khá trẻ (37 tuổi); song với sự học tập, rèn luyện, phấn đấu không ngừng
nghỉ, Đồng chí luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, xứng đáng với sự tin tưởng
của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam. Với 30 năm là Tổng Tư lệnh Quân đội, Bí thư Quân ủy Trung ương, Đồng chí
luôn tỏ rõ là nhà quân sự xuất chúng, nhà lãnh đạo có uy tín lớn của Đảng, Nhà
nước và Nhân dân ta; được cán bộ, chiến sĩ Quân đội yêu mến, kính trọng, suy
tôn là “Người Anh cả” của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên
Giáp là vị tướng có công lao, đóng góp to lớn trong xây dựng Quân đội Nhân dân
Việt Nam hùng mạnh, chính quy, tinh nhuệ, ngày càng hiện đại. Từ Đội Việt Nam
Tuyên truyền giải phóng quân - đội quân chủ lực đầu tiên chỉ với 34 chiến sĩ và
vài chục khẩu súng trường, súng kíp thô sơ, rồi từng bước lớn lên thành những
trung đoàn, đại đoàn thiện chiến, kiên cường chiến đấu và chiến thắng kẻ thù
xâm lược. Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động
địa cầu” là minh chứng sinh động về sự trưởng thành, lớn mạnh của Quân đội ta
dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Đảng, Bác Hồ kính yêu và sự chỉ huy tài
tình của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Lần đầu
tiên trên thế giới, quân đội của một nước thuộc địa nhỏ ở châu Á đã đánh bại
quân đội của một cường quốc châu Âu.
Bước sang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại tướng
Võ Nguyên Giáp tiếp tục giữ cương vị là người đứng đầu
Quân đội, cùng với Bộ Chính trị hoạch định những quyết sách chiến lược. Đại
tướng là người sớm có kiến nghị và có nhiều công lao trong việc khẩn trương xây
dựng Quân đội Nhân dân tiến lên chính quy, hiện đại, xây dựng các Quân chủng
Phòng không - Không quân, Hải quân, Binh chủng Đặc công, xây dựng đường Trường
Sơn - đường Hồ Chí Minh trên bộ và đường Hồ Chí Minh trên biển chi viện cho
tiền tuyến lớn miền Nam và tiến thẳng đến dinh lũy của kẻ địch vào ngày toàn
thắng. Đặc biệt, gần cuối cuộc kháng chiến
chống Mỹ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề
xuất ra việc khẩn trương thành lập các quân đoàn chủ lực (Quân đoàn 1, 2, 3 và
4) để nhân sức mạnh tổng hợp của các sư đoàn, đáp ứng yêu cầu tác chiến hiệp
đồng quân, binh chủng, thực hiện những trận đánh tiêu diệt lớn. Cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch
sử đã chứng minh đề xuất trên của đồng chí Tổng Tư lệnh là sáng tạo và chính
xác, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn chiến trường, đáp ứng nhạy bén yêu cầu
của sự phát triển quân đội và quy luật phát triển của chiến tranh vào thời điểm
đó.
3.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp - một thiên tài quân sự đã cùng toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những chiến công
hiển hách
Trong tất cả những bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt
Nam sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945 và những chiến dịch quân sự trong kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; dưới ngọn cờ bách chiến, bách thắng của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã góp phần làm nên những chiến thắng vĩ đại, tác
động mạnh mẽ vào dòng chảy lịch sử dân tộc; trở thành vị tướng huyền thoại,
thiên tài quân sự thời đại… và nhận được sự ngưỡng mộ, kính trọng của nhiều
nguyên thủ quốc gia, chính khách, học giả, nhà sử học, nhà báo, nhà văn và đông
đảo Nhân dân thế giới.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp là chuyên gia lỗi lạc hàng đầu về
đường lối chiến tranh Nhân dân của phong trào giải phóng dân tộc trong nước và
trên thế giới. Đó là nghệ thuật đánh lâu dài để chuyển hóa so sánh lực lượng
khi lực lượng ban đầu của ta còn nhỏ yếu; đó là nghệ thuật chớp thời cơ để
giành lấy thắng lợi có tính chiến lược làm xoay chuyển cục diện chiến tranh; đó
là nghệ thuật xây dựng, tổ chức và sử dụng kết hợp lực lượng vũ trang ba thứ
quân, nghệ thuật tổ chức, sử dụng quân đội, từ quy mô nhỏ bé ban đầu tới hình
thành trên thực tế các quân, binh chủng, các binh đoàn chủ lực - những quả đấm
thép quyết định thắng lợi trên chiến trường; đó là nghệ thuật luôn chủ động về
chiến lược và chiến dịch, phân tích và đánh giá đúng tình hình với tư duy chiến
lược sắc sảo, phán đoán đúng, dự báo sớm âm mưu và hành động của đối phương để
chủ động về lực lượng, thế trận và cách đánh; đó là nghệ thuật tổ chức bảo đảm
hậu cần chiến lược và chiến dịch…
Đại tướng Võ Nguyên Giáp là nhà chỉ huy quân sự có tài
thao lược kiệt xuất, bậc thầy về chiến lược, chiến thuật quân sự. Đại tướng là
vị tướng tài ba, người cầm quân rất cẩn trọng trong so sánh tương quan lực
lượng đôi bên, luôn chủ động bắt buộc đối phương bị động thay đổi thế cờ, đánh
theo cách đánh của ta, vì thế mà phá sớm về chiến thuật, chiến dịch, chiến
lược, dẫn đến thất bại hoàn toàn của địch. Điển hình, đó là quyết định chuyển
phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”
giành thắng lợi trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, kết thúc cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là quyết định chọn đúng hướng đột phá
chiến dịch vào Buôn Ma Thuột - Tây Nguyên; kịp thời nắm bắt thời cơ chiến lược,
đề nghị chuyển sang kế hoạch sớm giải phóng miền Nam trong năm 1975; kịp thời
chỉ đạo mở các chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng và giải phóng quần đảo
Trường Sa, phê chuẩn đề nghị thành lập cánh quân phía Đông và ra mệnh lệnh
“Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa…” cho toàn quân xốc tới;
ra lệnh cho cánh quân phía Đông tiếp tục phát triển tiến công, không chờ đợi để
nhanh chóng tiến vào giải phóng Sài Gòn, cùng với 4 cánh quân khác mãnh liệt
đánh vào sào huyệt địch trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đưa cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc. Trong các chiến dịch lớn có tính chất quyết định, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp luôn thể hiện sự quyết đoán, sắc bén và có tư duy quân sự, chiến
thuật, tài chỉ huy đặc biệt.
Những kiến thức và tài năng quân sự của Đại tướng Võ
Nguyên Giáp đều do tự học từ lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam và lịch sử quân sự thế giới; tự rèn luyện, tự đúc rút kinh
nghiệm qua thực tế chiến đấu của Quân đội ta mà nên. Chính điều ấy đã làm nên
sự khác biệt của Đại tướng, khiến thế
giới khâm phục, suy tôn Võ Nguyên Giáp là danh tướng, một trong những thống
soái kiệt xuất nhất trong lịch sử nhân loại... là một trong số ít những người
có khả năng làm thay đổi dòng chảy lịch sử.
4.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Người có công lao to lớn góp phần vào việc hình
thành và phát triển học thuyết quân sự - đường lối chiến tranh Nhân dân độc đáo
của Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh
Không chỉ là một thiên tài quân sự, trực tiếp tổ chức,
kiến tạo những trận đánh lớn, đánh bại những danh tướng hàng đầu của thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, Ðại tướng Võ Nguyên Giáp có công lao đóng góp to lớn
trong việc hình thành, phát triển học thuyết quân sự Việt Nam thời đại Hồ Chí
Minh, đó là đường lối chiến tranh Nhân dân, lấy chính nghĩa thắng bạo tàn. Học
thuyết kế thừa và phát huy những bài học giá trị lịch sử của cha ông chống giặc
ngoại xâm trong thời đại mới.
Đường lối chiến tranh của Đảng và tư tưởng quân sự Hồ Chí
Minh đã nêu rõ nhiều luận điểm rất cơ bản, như: phải tiến hành cuộc chiến tranh
nhân dân toàn dân, toàn diện; trường kỳ kháng chiến với tự lực cánh sinh là
chính, viện trợ bên ngoài là quan trọng; xây dựng lực lượng vũ trang gồm ba thứ
quân (dân quân du kích, bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực), lấy bộ đội chủ lực
làm nòng cốt; tiến hành chiến tranh du kích kết hợp chiến tranh chính quy với
quy mô thích hợp trong từng giai đoạn; toàn dân đánh giặc với nhiều hình thức
linh hoạt, lấy yếu địch mạnh, lấy nhỏ đánh lớn, lấy chất lượng tinh thắng số
lượng đông, tập trung và phân tán lực lượng linh hoạt, chiến đấu dũng cảm, mưu
trí, giữ nghiêm kỷ luật và tuyệt đối bí mật, đánh chắc thắng; giành thắng lợi
từng phần tiến lên giành thắng lợi toàn bộ…
Không chỉ kiên định và quán triệt sâu sắc, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp là người đã tiến hành đường lối chiến tranh Nhân dân hết sức độc
đáo, sáng tạo, sinh động và đầy hiệu quả. Đồng chí hết sức coi trọng việc xây
dựng tổ chức đảng “trong sạch, vững mạnh” trong các lực lượng vũ trang, đặc
biệt quan tâm, chăm lo xây dựng bản lĩnh chính trị, bản lĩnh chiến đấu, chiến
thuật quân sự, khả năng tác chiến; giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”
trong cán bộ, chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Đại
tướng kết hợp rất chặt chẽ, khéo léo đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính
trị, ngoại giao, tư tưởng, văn hóa; quốc phòng với kinh tế, an ninh… để đạt
được kết quả toàn diện trên cả hai nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc.
Dưới
sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, đứng đầu là Lãnh tụ tối cao Hồ
Chí Minh, cùng với Quân đội và Nhân dân Anh hùng, Đại tướng Võ Nguyên
Giáp đã điều hành cuộc chiến tranh toàn dân thần kỳ của dân tộc Việt Nam đạt
đến đỉnh cao của nghệ thuật quân sự. Đường lối ưu việt của cuộc chiến tranh
toàn dân, toàn diện, kháng chiến trường kỳ đã đánh bại và làm phá sản hoàn toàn
đường lối chiến lược tốc chiến, tốc thắng và các chiến lược khác của những đế
quốc hùng mạnh nhất (Pháp và Mỹ) ở thế kỷ XX. Đây là sự kiện có một không hai
trong lịch sử quân sự thế giới.
5.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Nhà văn hóa lớn, có những đóng góp quan trọng trên
các lĩnh vực giáo dục, báo chí, ngoại giao, lịch sử… và phong trào cách mạng
thế giới
Không
chỉ tỏa sáng rực rỡ trong lĩnh vực quân sự, Đại tướng còn là một trong những
nhà văn hóa lớn của Việt Nam. Đại tướng đã dành nhiều tâm sức cho việc viết hồi
ký và lịch sử. Những tác phẩm của Đại tướng, như: “Từ nhân dân mà ra”, “Những
năm tháng không thể nào quên”, “Chiến đấu trong vòng vây”, “Điện Biên Phủ điểm
hẹn lịch sử”, “Tổng Hành dinh trong mùa xuân toàn thắng”, “Tư tưởng Hồ Chí Minh
và con đường cách mạng Việt Nam”... đã giúp người đọc cả trong và ngoài nước
càng hiểu sâu hơn về bản sắc, truyền thống văn hóa, nguồn gốc sức mạnh của dân
tộc Việt Nam, càng thêm yêu mến, khâm phục đất nước và con người Việt Nam.
Đồng chí Võ Nguyên Giáp không chỉ là một Đại tướng lừng
lẫy của Quân đội Nhân dân Việt Nam mà trong các lĩnh vực khác, như giáo dục -
đào tạo, khoa học - kỹ thuật, báo chí, ngoại giao, văn hóa, lịch sử…, Đồng chí
đều có nhiều đóng góp quan trọng, thực sự là con người tài - đức vẹn tròn, văn
- võ song toàn.
Khi
là giáo viên dạy môn lịch sử tại trường tư thục Thăng Long, Hà Nội (5/1939),
thầy giáo Võ Nguyên Giáp đã mang bầu nhiệt huyết cách mạng của mình để cùng với
đồng nghiệp truyền thụ cho học sinh lòng yêu nước thương dân, khơi dậy lòng
nhiệt tình và lối sống có trách nhiệm với bản thân, với quê hương, với dân tộc.
Khi đất nước bước vào thời kỳ kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế, Đại tướng
đã nhiều lần phát biểu những ý kiến tâm huyết của mình để chấn hưng nền giáo
dục nước nhà.
Trên cương vị Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Đại tướng
Võ Nguyên Giáp đã
có nhiều đóng góp cho việc phát triển khoa học - kỹ thuật của đất nước.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một nhà báo chính luận sắc
sảo từ khi còn rất trẻ. Bài báo đầu tiên của Đồng chí bằng tiếng Pháp được gửi
đăng trên tờ báo L’Annam ngày 24/3/1927 do Luật sư Phan Văn Trường ở Sài Gòn
làm chủ nhiệm với tựa đề “Đả đảo tên tiểu bạo chúa ở trường Quốc học!” đã để
lại ấn tượng sâu sắc đối với người làm báo lúc bấy giờ. Thời kỳ Mặt trận Dân
chủ 1936 - 1939, Đồng chí thành lập báo “Hồn trẻ”; cùng một số đồng chí sáng
lập và làm biên tập viên cho các tờ báo công khai hồi đó, như: “Tiếng dân”,
“Tiếng nói của chúng ta”, “Lao động”, “Tiến lên”, “Tập hợp”…; cùng đồng chí Trường
Chinh biên soạn tác phẩm “Vấn đề dân cày”, có giá trị lớn cho công tác chỉ đạo
thực tiễn của Đảng ta lúc bấy giờ. Tại Đại hội báo giới Bắc Kỳ lần thứ nhất họp
ngày 24/4/1937, Đồng chí được bầu là Chủ tịch Báo giới Bắc Kỳ.
Trên
lĩnh vực nghiên cứu lịch sử, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là nhà tổng kết lịch sử
hàng đầu của nền sử học đương đại Việt Nam. Từ những bài viết về dân cày, về
cách mạng tư sản Pháp và nhiều vấn đề có liên quan đến lịch sử trên các tờ báo
đến những bài dạy sử trên bục giảng trường Thăng Long cho đến hàng trăm bài nói
về lịch sử vào những dịp kỷ niệm các danh nhân hoặc sự kiện lịch sử hay các hội
thảo khoa học... tập hợp lại đó là những thông tin, tư liệu, tài liệu về lịch
sử vô cùng quý giá. Từ các bài tổng kết chiến tranh đến những công trình lý
luận về quân sự, về tư tưởng Hồ Chí Minh, về hai cuộc kháng chiến và đặc biệt
là bộ Tổng tập hồi ký Đại tướng Võ Nguyên Giáp đều là những công trình khoa học
về những sự kiện lịch sử quan trọng nhất của nửa sau thế kỷ XX.
Trên
lĩnh vực ngoại giao, Đồng chí cũng có những đóng góp rất quan trọng. Sau ngày
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945, nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa (nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) non trẻ đứng trước những
khó khăn bộn bề, vận mệnh dân tộc được ví như “ngàn cân treo sợi tóc”, đồng chí
Võ Nguyên Giáp trên cương vị Bộ trưởng Bộ Nội vụ (bao gồm Nội chính và Công an)
được Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc này là Chủ tịch Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao) giao cho nhiều nhiệm vụ đối ngoại đặc biệt, như: tiếp xúc với Phái
bộ Mỹ mới sang Việt Nam cùng những người Pháp trong máy bay, hay cuộc “chạm
trán” với J. Xanh-tơ-ny tại phòng lớn của Phủ Toàn quyền, chuẩn bị tiến tới
Hiệp định ngày 6/3/1946, cũng như gặp gỡ tướng Lơ-cléc sau khi ký Hiệp định Sơ
bộ, hay cuộc đấu trí và đấu lý ở Hội nghị Đà
Lạt… những cuộc gặp gỡ đó, Đồng chí đã không bỏ bất kỳ cơ hội đàm phán nào để
đi đến hòa bình nhằm thực hiện mục tiêu cao cả: độc lập và thống nhất đất nước.
Với
phong trào cách mạng thế giới, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có những đóng góp rất
quan trọng, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, tiến
bộ xã hội, chống áp bức, bóc lột, bất công ở các nước thuộc địa châu Á, châu
Phi, châu Mỹ la tinh. Điều này đã được các nhân vật, lực lượng chính trị và xã
hội ở nhiều nước các châu lục thừa nhận.
6. Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Nhà lãnh đạo mẫu mực về đạo
đức cách mạng, có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước, Nhân dân, Quân đội và bạn bè
quốc tế
Hơn
80 mươi năm hoạt động cách mạng, cuộc đời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gắn liền với sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, dân tộc ta
và Quân đội ta. Ở Đại tướng luôn sáng ngời những phẩm chất nhân cách của nhà
văn hóa lớn, một tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; đặc biệt
là 6 đức tính cần phải có của các vị tướng do Bác Hồ chỉ ra “Trí, Dũng, Nhân,
Tín, Liêm, Trung” luôn được Đại tướng
Võ Nguyên Giáp thực hiện đầy đủ, trọn vẹn. Đại tướng là tấm gương sáng về sự
liêm khiết, giản dị, khoan dung, nhân hậu, khiêm tốn, ham học hỏi, đoàn kết,
sống có tình nghĩa, hết lòng thương yêu đồng chí, đồng bào. Tình thương
yêu con người của Đại tướng được hòa quyện với tình yêu quê hương, đất nước và
đã để lại trong nhân dân Việt Nam cùng bạn bè quốc tế hình ảnh về một nhà lãnh
đạo đức độ, tài năng, một nhà hoạt động thực tiễn xuất sắc, một chiến sĩ cách
mạng kiên trung, suốt đời tận tụy hy sinh phấn đấu phục vụ Đảng, phục vụ nhân
dân, phục vụ đất nước, không màng chút danh, lợi riêng tư.
Đại
tướng Võ Nguyên Giáp luôn ghi nhớ, noi gương và thực hành lời căn dặn của Lãnh
tụ Hồ Chí Minh: Làm cách mạng là phải “Dĩ công vi thượng” (tức là phải đặt lợi
ích chung lên trên hết), “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, “Cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng”… coi đó làm phương châm sống và phấn đấu trong suốt cuộc đời.
Đại tướng không chỉ thể hiện rõ tư duy độc lập, sáng tạo của một nhà lãnh đạo ở
tầm chiến lược mà còn là người tổ chức, hoạt động với tinh thần trách nhiệm
cao, nghiêm túc, mẫu mực; phong cách làm việc khoa học, nguyên tắc nhưng hết
sức linh hoạt; luôn đề cao vai trò của tập thể, phục tùng tổ chức; luôn coi
trọng thực tiễn, chịu khó học tập, lắng nghe ý kiến hay của quần chúng, của các
chuyên gia, nhà khoa học…; luôn tin tưởng vào sức mạnh của quần chúng Nhân dân,
liên hệ và gắn bó mật thiết với Nhân dân; phấn đấu không mệt mỏi xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc; đem hết trí tuệ, sức lực để hoàn thành tốt mọi công
việc của Đảng, Nhân dân và Quân đội giao phó.
Đại
tướng Võ Nguyên Giáp được Nhân dân hết lòng kính trọng, suy tôn là vị “Đại
tướng của Nhân dân”. Cán bộ, chiến sĩ Quân đội mến phục, suy tôn là “Người anh
Cả” duy nhất của Quân đội ta, xứng đáng là “Chính ủy của các Chính ủy, Tư lệnh
của các Tư lệnh, Tướng của các Tướng”, “Tổng Tư lệnh biết quý từng giọt máu mỗi
chiến binh”. Thế giới cũng rất nể phục nhân cách, đức độ của Đại tướng, tôn
vinh Đại tướng là Anh hùng dân tộc của Nhân dân Việt Nam.
Với
103 tuổi đời, hơn 70 tuổi Đảng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có những cống hiến
to lớn, đặc biệt xuất sắc cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Cuộc đời hoạt động
cách mạng của Đồng chí là tấm gương sáng để đồng bào, cán bộ, chiến sĩ cả nước
kính trọng, yêu quý, học tập và noi theo. Hình
ảnh và những cống hiến của Đồng chí cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
luôn sống mãi với non sông, đất nước, sống mãi trong lòng Nhân dân và bạn bè
quốc tế. Trong lời điếu trong Lễ quốc tang của Đại tướng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta đánh giá cao công lao to lớn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, các
thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội ta suy tôn đồng chí là anh Cả của Quân đội
Nhân dân Việt Nam. Con người, nhân cách và những cống hiến to lớn của đồng chí
in đậm trong lòng Nhân dân, là vị tướng của Nhân dân, mãi mãi lưu danh trong
lịch sử dân tộc”.
PL giới thiệu