Tại Hoằng Phúc Cổ Tự (nơi vị
Phật Hoàng đã cho lập Am Tri Kiến, tiền thân của chùa Hoằng Phúc trong một lần
viễn du phương Nam vào năm 1301), chùa Hoằng Phúc long trọng tổ chức Đại lễ
tưởng niệm 710 năm Đức Vua - Phật Hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết Bàn vào lúc 9
giờ 30 phút ngày 01 tháng 11 năm Mậu Tuất (nhằm ngày 07/12/2018).

TRẦN NHÂN TÔNG - VỊ
PHẬT HOÀNG ANH MINH, NHÂN TỪ
Trần Nhân Tông (1258-1308) là vị vua thứ ba đời nhà Trần. Sinh ra và lớn
lên vào thời kỳ đất nước luôn luôn bị giặc ngoại xâm lăm le xâm lược, nên ông sớm
ý thức được trách nhiệm của mình đối với Tổ quốc, Nhân dân và bá tánh. Ông lên
ngôi lúc vừa tròn hai mươi tuổi, góp phần ổn định tình hình đất nước và củng cố
quốc phòng - an ninh, bảo vệ bình yên bờ cõi Tổ quốc.
Vua trị vì từ
năm 1278 đến năm 1293, sau đó nhường ngôi và
lên làm Thái thượng hoàng từ năm 1293 cho đến khi qua đời.
Trần Nhân Tông là một vị vua anh minh, đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển
bền vững của Đại Việt cuối thế kỷ XIII, cũng như việc bảo vệ nền độc lập và mở rộng cương
thổ đất nước. Ngoài ra, ông còn là một thiền sư lớn của Phật giáo Việt Nam thời trung đại, có nhiều đóng góp, sáng
lập và lãnh đạo Phật giáo Trúc Lâm.
Mùa xuân năm 1293, Trần
Nhân Tông nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, tức Trần Thuyên và lên làm Thái
thượng hoàng như truyền thống của nhà Trần. Năm 1295, ông đã xuất gia ở Vũ Lâm
(Hoa Lư, Ninh Bình ngày nay), rồi lại trở về kinh sư. Cho đến mùa thu năm 1299,
từ Phủ Thiên Trường, Nhân Tông mới chính thức xuất gia, lên núi Yên Tử tu Phật
và sáng lập ra phái Thiền Trúc Lâm mà ông là Tổ thứ nhất. Từ đây, ông lấy Pháp
hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà hoặc Trúc Lâm Đại Đầu Đà. Người đương thời và các
đời sau tôn xưng ông là Điều Ngự Giác Hoàng.
Sau hơn 710 năm phát triển, đến nay,
thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã chứng tỏ là dòng thiền mang đậm dấu ấn văn hóa Đại
Việt, với tư tưởng nhập thế Đạo pháp gắn liền với Dân tộc.
VIỄN
DU NAM PHƯƠNG, LẬP AM TRI KIẾN
Trần Nhân Tông tuy xuất
gia nhưng vẫn nặng lòng lo việc nước, việc dân. Đối với ông, Phật giáo nói
chung và dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử nói riêng phải luôn gắn liền với đời sống của
đất nước, của dân tộc, không thể có sự cách biệt giữa Đạo và Đời. Ngay việc Trần
Nhân Tông chọn Yên Tử làm nơi tu thiền cũng hàm chứa nhiều tầng nghĩa. Yên Tử
có cảnh vật vừa đẹp, vừa thanh vắng, rất thích hợp cho việc tu thiền nên các
vua Trần đã tìm đến núi Yên Tử.
Năm 1301, sau khi đã
xuất gia ở Yên Tử, Trần Nhân Tông còn viễn du đến biên giới phía Nam của đất nước,
lập Am Tri Kiến tại trại Bố Chính (Chùa Hoằng Phúc ở thôn Thuận Trạch - Mỹ Thủy
- Lệ Thủy - Quảng Bình ngày nay). Đây là một sự kiện lịch sử có ý nghĩa vô cùng
trọng đại đối với mảnh đất, con người Lệ Thủy. Phải là một vùng đất trù phú,
yên bình, nơi có phong cảnh hữu tình lắm thì Phật Hoàng mới chọn đây là chốn dừng
chân của mình, để rồi hơn 700 năm sau, vẫn sừng sững uy nghi nơi đây một ngôi cổ
tự linh thiêng, trầm mặc, đúng như nhận xét của Tiến sĩ Dương Văn An cách nay hơn 460
năm: “Chùa ở gần trạm Bình Giang, huyện Lệ Thủy, nước biếc uốn quanh, non xanh
chầu về. Hẳn nhiên là một ngôi chùa u tịch, một cõi thần tiên vậy. Nhà
cửa, thôn xóm không xa nhưng tuyệt nhiên không nghe thấy tiếng gà gáy, chó sủa.
Thật là một ngôi chùa lớn ở Tân Bình... Nay hoa rụng, chim kêu, chỉ còn trơ lại
nền mà thôi.” (Giới nghiên cứu cho rằng, Dương Văn An viết Ô châu cận lục vào khoảng năm 1554).
HÀNH PHƯƠNG NAM, MỞ MANG BỜ CÕI
Sau khi cho lập xong
Am Tri Kiến, ở lại một thời gian rồi Phật Hoàng Trần Nhân Tông đi tiếp đến tận
kinh đô của Chiêm Thành và du ngoạn ở đấy 7 tháng liền. Vua Chiêm Thành bấy giờ
là Chế Mân, biết tin Trần Nhân Tông khoác áo cà sa đến nước mình đã “hết sức
kính trọng thỉnh mời, dâng cúng trai lễ”.
Nhân chuyến đi này,
Trần Nhân Tông đã hứa gả Công chúa Huyền Trân cho Chế Mân. Ít năm sau (năm
1306), Chế Mân đã đem hai châu Ô, Lý làm lễ vật dẫn cưới Huyền Trân. Hai châu ấy
được đổi tên thành Châu Thuận, Châu Hóa (Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế ngày
nay) và sáp nhập vào bản đồ Đại Việt. Quan hệ bang giao giữa Đại Việt và Chiêm
Thành chưa có thời kỳ nào thân thiện như thế.
Một nhà nghiên cứu lịch
sử Phật giáo Việt Nam nhận xét: "Đây phải nói là một điểm sáng kỳ lạ trong
đời sống của một người xuất gia như vua Trần Nhân Tông. Chưa bao giờ trong lịch
sử Phật giáo ở nước ta hay ở bất cứ một nước nào khác trên thế giới, một người
xuất gia lại có thể mở mang bờ cõi và mở mang bờ cõi một cách hòa bình. Căn cứ
vào giới luật của hàng Phật tử bình thường sống ở các chùa chiền... thì một người
xuất gia không bao giờ được phép đi làm mai mối cho việc dựng vợ gả chồng. Thế
mà, Hương Vân Đại Đầu Đà đã làm việc đó và làm một cách thành công".
Lại nói về triết lý của Thiền phái
Trúc Lâm do ba vị Tam Tổ sáng lập: Trần Nhân Tông cùng với sư Pháp Loa (tức Đồng
Kiên Cương 1284-1330) và Huyền Quang (tức Lý Đạo Tái 1254-1334) mang đậm bản sắc
văn hóa Đại Việt. Lý thuyết của phái Trúc Lâm do Trần Nhân Tông khởi xướng là
không kêu gọi tín đồ lìa bỏ cuộc sống trần tục, không ép xác khổ hạnh mà đề cao
nhân nghĩa, giáo dục lòng nhân đạo, không phân biệt giàu sang, luôn luôn nhớ tới
cội nguồn. Trần Nhân Tông tổ chức giảng Kinh Vô lượng cho hàng ngàn người nghe
và mọi người tiếp thu tư tưởng của ông, nhận rõ đạo Phật Trúc Lâm là nhập thế,
không huyền vi xa lạ.
LỆ
THỦY BIẾT ƠN PHẬT HOÀNG
Người Lệ Thủy nói chung và người Thuận Trạch nói riêng
đặc biệt tự hào về ngôi Cổ Tự có niên đại trên 700 năm tuổi này. Càng tự hào,
người dân chốn "Địa linh nhân kiệt" này lại càng biết ơn Phật hoàng
Trần Nhân Tông. Nếu trong chuyến viễn du năm nào, Người không dừng chân chốn
này, chắc sẽ chẳng có một Hoằng Phúc Cổ Tự - ngôi chùa được xem là cổ nhất miền
Trung như hôm nay!
Không chỉ là nơi thờ phụng Phật Pháp đơn thuần, trong
hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ, đỉnh điểm năm 1972, khi Mỹ tăng cường
đánh phá miền Bắc, chùa Hoằng Phúc nằm trong vùng hứng chịu bom đạn nên bị hư hỏng
nặng nề. Sau chiến tranh, chùa cổ Hoằng Phúc được dân làng và chức sắc dựng tạm
lên để hương khói, thờ phụng và quan trọng nhất là không đánh mất những dấu tích
còn lại thuộc về ngôi chùa cổ u tịch và trầm mặc năm xưa, đó là nền móng, bức
tường rêu phong phía trước chùa, cây si, già cùng cổng “Tam quan” với chằng chịt
rễ cây cổ thụ quấn quanh thân mình. Với những giá trị về văn hóa, lịch sử,
Tháng 12 năm 2015, chùa Hoằng Phúc đã được công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc
gia.
Chùa Hoằng Phúc là nơi tôn nghiêm để phụng thờ và hoằng dương Phật Pháp, điểm đến
của Phật tử gần xa trong sinh hoạt văn hóa tâm linh, giữ gìn bản sắc truyền thống
văn hóa của quê hương. Bảo tồn và lưu giữ những giá trị văn hóa mà ông cha để lại,
góp phần giáo dục nhân cách cũng như để thế thệ sau hiểu hơn về những nét đẹp
truyền thống của dân tộc.
BẢO
CHÂU