Trên thực tế, ngay từ những năm cuối thập kỷ 40 - đầu thập kỷ 50 thế kỷ XX, các chính quyền Mỹ đã bước đầu triển khai chiến lược toàn cầu " Ngăn chặn ". Về kinh tế, ngày 5 - 6 - 1947, Ngoại trưởng Mỹ Mác - san đã đưa ra " Phương án phục hưng châu Âu " ( còn gọi là " Kế hoạch Mác - san " ). Theo kế hoạch này, từ năm 1948 đến năm 1951, Mỹ đã viện trợ cho các nước Tây Âu tổng số tiền khoảng 17 tỉ USD nhằm vực dậy các nước này , giành lại và biến địa bàn Tây Âu thành tấm lá chắn, tiền đồn ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản. Về quân sự, Mỹ tiến hành thiết lập các liên minh quân sự lâu dài, tiêu biểu là tổ chức khối quân sự Bắc Đại Tây Dương ( NATO, tháng 4 - 1949 ), khối quân sự Đông Nam Á ( SEATO, tháng 9 - 1954 ). Ngoài ra , Mỹ còn tổ chức liên minh quân sự tay đôi với các nước khác như: liên minh Mỹ - Nhật, Mỹ - Hàn Quốc, Mỹ - Đài Loan, trong đó quan trọng nhất là liên minh Mỹ - Nhật. Thông qua liên minh này, Mỹ xác lập sự có mặt của lực lượng quân sự Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương, chỉa mũi nhọn tấn công uy hiếp vào Liên Xô, Trung Quốc; biến Nhật Bản thành tiền đồn thứ hai ( sau Tây Âu ) để ngăn chặn sự lan tràn của " làn sóng đỏ " xuống khu vực Đông Nam Á. Đồng thời, với bộ ba chiến lược ( vũ khí nguyên tử, máy bay ném bom chiến lược B52, hệ thống căn cứ quân sự , cùng các phương tiện chiến tranh hiện đại khác, Mỹ tăng cường chạy đua vũ trang, gây ảnh hưởng với Liên Xô, lôi kéo đồng minh gây chiến tranh ở bán đảo Triều Tiên, ở Trung Đông ( Ixraen - Arập ), ở Đức... đặc biệt là " cuộc chiến 10000 ngày " ở Việt Nam.

Sự phân chia khu vực ảnh hưởng và các khối quân sự
do Mỹ và Liên Xô lập ra trong " Chiến tranh lạnh "
Với những chiến lược quân sự toàn cầu liên tục được các chính quyền Mỹ đề ra như : chiến lược " Trả đũa ồ ạt " của chính quyền Ai - xen - hao ( 1953 - 1960 , chiến lược " Phản ứng linh hoạt " của chính quyền Ken - nơ - đi ( 1961 - 1963 ) và Giôn - xơn ( 1964 - 1968 ), chiến lược " Ngăn đe thực tế " của chính quyền Ních - xơn ( 1969 - 1974 ), Pho ( 1975 - 1976 ), Ca - tơ ( 1977 - 1980 ) đã làm cho tình hình thế giới luôn ở trong tình trạng căng thẳng, thậm chí có lúc đứng trước nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh thế giới mới.
2. Các chiến lược quân sự toàn cầu của Mỹ đã bị đánh bại như thế nào trong chiến tranh ở Việt Nam ?
2.1. Chiến lược " Trả đũa ồ ạt " của chính quyền Ai - xen - hao ( 1953 - 1960 )
Trong cuộc tổng tuyển cử năm 1953, tổng thống Tơ - ru - man đã không tái đắc cử một lần nữa mà được thay thế bởi tổng thống Ai - xen - hao ( Đảng Cộng hoà )
Sau khi lên nắm quyền, tổng thống Ai - xen - hao và giới cầm quyền Mỹ cho rằng chính quyền Tơ - ru - man chưa dùng đủ liều lượng quân sự cần thiết để chữa căn bệnh Liên Xô và sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Ai - xen - hao chủ trương đẩy mạnh chính sách " ngăn chặn " lên cao hơn một bước nữa vì Mỹ đang giữ ưu thế về vũ khí nguyên tử và sức mạnh tổng hợp , nhằm buộc Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa phải lùi bước. Trên cơ sở đó, Tổng thống Ai - xen - hao đề ra chiến lược quân sự toàn cầu " Trả đũa ồ ạt ".
Nội dung của chiến lược quân sự toàn cầu " Trả đũa ồ ạt " gồm ba bước cơ bản: hiện đại hoá các loại vũ khí ( kể cả vũ khí hạt nhân ); tổ chức và cơ cấu lại lực lượng; tư tưởng tác chiến, tình huống tác chiến và địa bàn tác chiến.
Địa bàn trọng yếu trong đòn " trả đũa " của Mỹ là châu Âu, khu vực Đông Á, Trung Đông và Đông Dương nhằm đối phó với phong trào giải phóng dân tộc đang dâng cao ở những khu vực này.
Chủ nghĩa Ai - xen - hao cùng chiến lược quân sự toàn cầu " Trả đũa ồ ạt ", chính sách ngoại giao " bên miệng hố chiến tranh ", chủ trương đẩy cuộc " chiến tranh lạnh " lên cao một bước đã làm cho mâu thuẫn thế giới lên đến đỉnh cao, gây tình trạng đối đầu căng thẳng, gay gắt trong quan hệ quốc tế.
Trên chiến trường Đông Dương, trong những năm 1950 - 1954, khi thực dân Pháp liên tiếp bị thất bại, sa lầy trong cuộc chiến tranh xâm lược tại khu vực này và ngày càng lệ thuộc vào Mỹ. Lợi dụng tình hình đó, Mỹ can thiệp sâu và " dính líu trực tiếp " vào cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Mỹ đã không ngần ngại viện trợ cả về tài chính lẫn quân sự để Pháp đẩy mạnh chiến tranh. Ngày 23 - 12 - 1950, Hiệp định phòng thủ chung Đông Dương giữa Pháp - Mỹ được ký kết. Theo hiệp định này, Mỹ sẽ viện trợ quân sự, kinh tế - tài chính cho Pháp và bù nhìn, qua đó Mỹ buộc Pháp lệ thuộc vào mình, từng bước thay chân Pháp ở Đông Dương.
Sau thất bại trong đợt tiến công lên Căn cứ địa Việt Bắc lần thứ hai ( thu - đông 1950 ) và bị quân đội Việt Nam liên tiếp dồn ép khắp các chiến trường vùng rừng núi, trung du và đồng bằng trong những năm 1950 - 1953, quân Pháp ngày càng lúng túng, bị động, nguy cơ thất bại là không tránh khỏi. Để cứu vãn tình thế, với sự thoả thuận của Mỹ, ngày 7 - 5 - 1953, tướng Na - va được cử làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương. Sau khi đến Đông Dương, Na - va đã điều tra , nắm bắt cụ thể tình hình quân Pháp và cục diện chiến sự ở nơi đây. Từ đó, Na - va đã vạch ra kế hoạch quân sự mới nhằm mục đích xoay chuyển cục diện chiến tranh Đông Dương, hy vọng trong 18 tháng " kết thúc chiến tranh trong danh dự ".
Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân, mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, quân dân Việt Nam đã làm phá sản hoàn toàn Kế hoạch Na - va của Pháp - Mỹ. Hội nghị Giơ - ne - vơ chính thức khai mạc ngày 8 - 5 - 1954 và bắt đầu thảo luận về vấn đề lập lại hoà bình ở Đông Dương. Tham dự Hội nghị gồm có Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc và các nước có liên quan ở Đông Dương. Ngày 21 - 7 - 1954, Hiệp định Giơ - ne - vơ được ký kết. Hiệp định Giơ - ne - vơ cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ ở Việt Nam và Đông Dương. Pháp buộc phải rút hết quân đội về nước, Mỹ thất bại trong âm mưu kéo dài, mở rộng, quốc tế hoá chiến tranh xâm lược Đông Dương.
Sau khi Pháp rút quân, Mỹ nhảy vào Đông Dương thay chân Pháp. Mỹ đã tiến hành đưa quân vào khu vực này và tích cực hỗ trợ cho các lực lượng phản cách mạng chống lại phong trào giải phóng dân tộc ở ba nước Việt Nam, Lào, Cam - pu - chia. Ở miền Nam Việt Nam, tháng 4 - 1956, , Mỹ đưa bọn tay sai ( đứng đầu là Ngô Đình Diệm ) lên nắm quyền, thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài đối với Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, tiền đồn " ngăn chặn " sự lan tràn " của " làn sóng đỏ " xuống khu vực Đông Nam Á, Nam Á và châu Đại Dương.
Thực hiện " chiến tranh đơn phương ”, Mỹ đã lên dây cót cho chính quyền Ngô Đình Diệm, điên cuồng cấm phá, đàn áp các lực lượng cách mạng Việt Nam. Trong những năm 1957 - 1959, Mỹ - Diệm đẩy mạnh chiến dịch " tố cộng ", " diệt cộng ", " đặt cộng sản ngoài vòng pháp luật ", thực hiện " đạo luật 10 - 59 " ( 5 - 1959 ), lê máy chém đi khắp miền Nam, tăng cường khủng bố, đàn áp.
Với phong trào " Đồng khởi " ( 1959 - 1960 ), quân dân miền Nam Việt Nam đã giáng một đòn mạnh vào chiến lược Ai - xen - hao, làm phá sản chính sách thực dân mới, đập tan mưu đồ " bình định miền Nam ", " lấp sông Bến Hải, tiến quân ra Bắc " của Mỹ - Diệm, làm lung lay tận gốc chính quyền Ngô Đình Diệm.
2.2. Chiến lược " Phản ứng linh hoạt " của chính quyền Ken - nơ - đi ( 1961 - 1963 ) và Giôn - xơn ( 1964 - 1968 )
Thực hiện chiến lược quân sự toàn cầu " Trả đũa ồ ạt ", chính quyền Ai - xen - hao tin rằng trong thời gian ngắn sẽ khuất phục được Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, dập tắt được phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, không lâu sau khi được áp dụng vào thực tế, chiến lược quân sự toàn cầu của tổng thống Ai - xen - hao lại tỏ ra không hiệu quả, lúng túng, bị động trước những diễn biến mới của tình hình. Vì vậy, sau khi tổng thống Ai - xen - hao thất cử, chiến lược quân sự toàn cầu " Trả đũa ồ ạt " bị gác lại và được thay thế bằng chiến lược " Phản ứng linh hoạt " của chính quyền Ken - nơ - đi ( 1961 - 1963 ) và Giôn - xơn ( 1964 - 1968 ).
Nội dung của chiến lược quân sự toàn cầu mới này bao gồm:
- Thứ nhất, Mỹ chủ trương sử dụng chiếc " ô hạt nhân " để tấn công vào phong trào giải phóng dân tộc
- Thứ hai, Mỹ chuẩn bị sẵn sàng mọi điều kiện để có thể đối phó với cả ba loại hình chiến tranh: chiến tranh giải phóng dân tộc, chiến tranh cục bộ ở các khu vực và chiến tranh toàn cầu bằng vũ khí hạt nhân.
- Thứ ba, Mỹ tổ chức cơ cấu lại lực lượng. Lực lượng của Mỹ được chia thành hai bộ phận cơ bản: lực lượng tác dụng chung và lực lượng hạt nhân chiến lược.
Triển khai chiến lược quân sự toàn cầu " Phản ứng linh hoạt ", Mỹ chọn chiến trường Việt Nam làm nơi thí điểm, hy vọng sẽ rút ra được những kinh nghiệm nhằm đối phó hiệu quả hơn với các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc ở những nơi khác.
Trong những năm 1961 - 1965, thực hiện kế hoạch Sta - lây Tây- lơ, Mỹ tiến hành chiến lược " Chiến tranh đặc biệt " ở miền Nam Việt Nam. Đây là chiến lược chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ, được tiến hành bằng quân đội tay sai, do " cố vấn" Mỹ chỉ huy, dựa vào vũ khí, trang bị kỹ thuật, phương tiện chiến tranh của Mỹ.
Áp dụng lại chiến thuật " tát nước bắt cá " của thực dân Anh trong chiến tranh ở Ma - lai - xi - a, Mỹ xúc tiến việc dồn dân, lập " Ấp chiến lược ". Mỹ dự định xây dựng từ 16.000 - 17.000 " ấp chiến lược " để dồn khoảng 10 triệu nông dân vào trong đó nhằm cắt đứt chỗ dựa của các lực lượng cách mạng ở miền Nam, từ đó tấn công tiêu diệt các cơ sở căn cứ cách mạng nơi này. Mỹ và chính quyền Sài Gòn dự định " bình định " xong miền Nam trong vòng 18 tháng.
Bên cạnh chính sách " bình định nông thôn ", dồn dân lập " Ấp chiến lược ", được coi là quốc sách, xương sống của chiến lược " Chiến tranh đặc biệt ", Mỹ còn tăng cường lực lượng nguỵ quân, đưa thêm cố vấn quân sự Mỹ vào miền Nam và sử dụng các loại phương tiện chiến tranh hiện đại. Lực lượng nguỵ quân tăng từ 170.000 quân ( 1961 ) lên 354.000 quân ( 1962 ); lực lượng cố vấn quân sự Mỹ tăng từ 1077 tên ( 1961 ) lên 10.640 tên ( 1962 ).
Năm 1963, Tổng thống Ken - nơ - đi bị ám sát, Phó tổng thống Giôn - xơn lên nắm chính quyền. Giôn - xơn chủ trương áp dụng chiến lược quân sự toàn cầu " Phản ứng linh hoạt " và chính sách đối ngoại " vì hoà bình ở mức cao hơn ". Trên chiến trường miền Nam, Tổng thống Giôn - xơn, triển khai chiến lược " Chiến tranh cục bộ ", được tiến hành bằng quân đội Mỹ, quân đồng minh và quân đội Sài Gòn, dựa vào vũ khí, phương tiện chiến tranh, hoả lực của Mỹ.
Mỹ đưa quân đội của mình cùng quân đồng minh năm nước Hàn Quốc, Thái Lan, Phi - líp - pin, Ốt - xtrây - li - a, Niu Di - lân trực tiếp tham chiến ở chiến trường miền Nam. Số lượng quân Mỹ có mặt tại miền Nam Việt Nam cuối năm 1964 là 26.000 quân, đến cuối năm 1965 tăng lên 180.000 quân cộng với 20.000 quân của các nước chư hầu. Đó là chưa kể 70.000 lính hải quân và không quân trên các căn cứ quân sự của Mỹ ở Gu - am, Phi - líp - pin, Thái Lan và Hạm đội 7 luôn sẵn sàng tham chiến vào miền Nam.
Mục tiêu của Mỹ khi tiến hành " Chiến tranh cục bộ " ở miền Nam là nhằm giành ưu thế về hoả lực, từ đó làm thay đổi cục diện chiến tranh; đẩy lùi, tiêu diệt lực lượng chủ lực và cơ quan kháng chiến cách mạng.
Biện pháp tiến hành: Mỹ sử dụng phương pháp hai gọng kìm: " tìm diệt " ( do quân Mỹ đảm nhiệm ) và " bình định " ( do quân nguỵ đảm nhiệm )
Để hỗ trợ cho chiến tranh ở miền Nam, cuối năm 1964 đầu năm 1965, Mỹ tiến hành gây chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Chính quyền Giôn - xơn dựng lên " sự kiện vịnh Bắc Bộ ", lấy cớ hải quân Việt Nam tấn công tàu Mỹ tại hải phận quốc tế nên cho quân bắn phá miền Bắc để " trả đũa ". Ngày 5 - 8 - 1964, Mỹ sử dụng không quân và hải quân bắn phá một số nơi như cửa sông Gianh ( Quảng Bình ), Vinh - Bến Thuỷ ( Nghệ An ), Lạch Trường ( Thanh Hoá ), thị xã Hòn Gai ( Quảng Ninh ). Tiếp đó, ngày 7 - 2 - 1965, Mỹ lại cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi khác ở miền Bắc như thị xã Đồng Hới ( Quảng Bình ), đảo Cồn Cỏ ( Quảng Trị ) ... chính thức gây chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc lần thứ nhất. Trong cả hai đợt tấn công bắn phá miền Bắc, Mỹ đã huy động một lực lượng lớn không quân và hải quân, gồm hàng ngàn máy bay thuộc 50 loại khác nhau, có những loại tối tân như F111, B52 cùng hàng vạn tấn bom đạn dội xuống miền Bắc. Không quân và hải quân Mỹ tập trung bắn phá vào các mục tiêu quân sự, đầu mối giao thông, nhà máy, xí nghiệp... và cả trường học, bệnh viện, nhà trẻ, đền, chùa ...
Bằng đấu tranh quân sự, có sự phối hợp đấu tranh chính trị và công tác binh vận, trong những năm 1961 - 1965, quân dân miền Nam Việt Nam đã lập nên những thắng lợi vang dội, làm phá sản về cơ bản chiến lược " chiến tranh đặc biệt " của Mỹ. Tiêu biểu là chiến thắng Ấp Bắc ( 1 - 1963 ), Bình Giã ( đông - xuân 1964 - 1965 ). Đến những năm 1965 - 1968, trong quá trình chiến đấu chống chiến lược " Chiến tranh cục bộ ", trên mặt trận quân sự, quân dân miền Nam tiếp tục giành nhiều thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, mở đầu là chiến thắng Vạn Tường ( 8 - 1965 ), thắng lợi trong hai mùa khô đông - xuân 1965 - 1966 và 1966 - 1967, đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Đó là những đòn tấn công bất ngờ, làm cho lực lượng quân Mỹ và Nguỵ quân, Nguỵ quyền choáng váng, buộc Mỹ phải tuyên bố " phi Mỹ hoá " chiến tranh, thừa nhận sự thất bại trong chiến lược " Chiến tranh cục bộ " ở miền Nam.